Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc cho học sinh Lớp 1
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc cho học sinh Lớp 1

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG TRƯỜNG TIỂU HỌC HỒNG PHONG HỘI THI GIÁO VIÊN DẠY GIỎI HUYỆN CẤP TIỂU HỌC NĂM HỌC 2022 - 2023 BÁO CÁO BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY MÔN: TIẾNG VIỆT Tên biện pháp: “Biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc cho học sinh lớp 1.” Tác giả: ............ Trình độ: Đại học Tổ chuyên môn: ........... Đơn vị công tác: Trường Tiểu học ............ , tháng 10 năm 2021 I.PHẦN MỞ ĐẦU Lý do lựa chọn biện pháp. Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic, việc học Tiếng việt sẽ giúp các học sinh hình và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, học sinh sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc một cách chính xác và biểu cảm. Đối với trẻ học lớp 1 nội dung của môn Tiếng Việt tập trung hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói dựa trên vốn Tiếng Việt mà trẻ đã có. Các bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua các bài học thực tế. Ví dụ: Học âm “e”, sau đó viết con chữ “e”. Những tri thức về âm – chữ cái, về tiếng (âm tiết) – chữ, về thanh điệu – dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong đoạn hội thoại (câu hỏi, đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lý thuyết mà học sinh được hình dung cụ thể trong một văn bản cụ thể. Ở giai đoạn này, trẻ sẽ nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Vậy nên, việc học Tiếng Việt ở bậc tiểu học sẽ tạo nền tảng cho học sinh trong việc phát triển tư duy ngôn ngữ, biểu hiện qua việc học sinh đọc thông thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch. Bắt đầu học đọc, học viết nên học sinh lớp 1 còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, nhiều em chưa nắm vững các chữ cái. Nếu không được quan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của các em không cao. Để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh giáo viên phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ lớp 1. Ở lớp 1 các em đọc chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm, vần, chưa đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt hơn rất quan trọng. Đó là lí do tôi chọn “Biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc cho học sinh lớp 1,” để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều đọc tốt có nền móng cơ bản để học các lớp trên. Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 1. II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP Mục tiêu của biện pháp. - Dựa trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, biện pháp sẽ chỉ ra được những lỗi cơ bản mà học sinh hay mắc phải trong phân môn Tập đọc. - Chỉ ra những nguyên nhân mắc lỗi và đưa ra được một số biện pháp khắc phục. - Rèn kĩ năng đọc lưu loát, rõ ràng cho học sinh. - Phát triển kĩ năng đọc cho học sinh. - Giúp học sinh thêm yêu quý môn Tiếng Việt. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng biện pháp Cơ sở lý luận Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người. Bởi vậy, nâng cao năng lực đọc cho học sinh là hết sức cần thiết. Môn Tiếng Việt theo chương trình GDPT 2018 nhằm giúp HS phát triển kĩ năng đọc, viết, nói và nghe Tiếng Việt, nhờ đó có được công cụ để học tốt các môn học khác.Giúp các em nhận biết đúng các âm, vần, đọc đúng và rõ ràng bài văn đơn giản (khoảng 30 tiếng/phút), hiểu nghĩa các từ ngữ thông thường và nội dung thông báo của câu văn, đoạn văn. Nghe hiểu lời giảng và lời hướng dẫn của giáo viên. Nói rõ ràng, trả lời được câu hỏi đơn giản trong nội dung bài.Giúp HS bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe với mức độ căn bản: đọc đúng, trôi chảy, hiểu được nội dung, thông tin chính của văn bản; liên hệ, so sánh ngoài văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp, viết được một số câu, đoạn, bài văn ngắn; phát biểu rõ ràng, nghe hiểu ý kiến người nói. Giúp học sinh (HS ) hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu với các biểu hiện cụ thể: yêu thiên nhiên, gia đình, quê hương; có ý thức đối với cội nguồn; yêu thích cái đẹp, cái thiện và có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham thích lao động; thật thà, ngay thẳng trong học tập và đời sống; có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội và môi trường xung quanh. 2.2 Cơ sở thực tiễn Chương trình giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt. Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống được Hội đồng sư phạm và phụ huynh trường Tiểu học Hồng Phong lựa chọn để giảng dạy đối với các em học sinh lớp 1. Tập một môn Tiếng Việt ngoài các bài học ở Tuần mở đầu (giúp HS làm quen với môi trường và hoạt động học tập ở lớp 1) và Tuần ôn tập, 16 tuần còn lại có 80 bài, mỗi tuần có 5 bài, gồm cả bài Ôn tập và kể chuyện ở cuối tuần. Mỗi bài được dạy học trong 2 tiết, trình bày trong 2 trang sách. Ngoài ra, mỗi tuần còn có 2 tiết tập viết tăng thêm ngoài thời gian tập viết trong các bài học; trước khi viết, HS cũng được luyện đọc các từ ngữ luyện viết. Ngoài luyện viết và luyện đọc, thời gian còn lại của 2 tiết (nếu có) có thể dành để HS làm các bài tập nối, điền, được thiết kế trong vở bài tập. Tập hai: Có 8 bài lớn, mỗi bài được dạy học trong 2 tuần (24 tiết). Các bài lớn được thiết kế theo hệ thống chủ điểm. Với hệ thống chủ điểm có “độ phủ” rộng, kết hợp với kênh hình được thiết kế công phu, Tiếng Việt 1 đáp ứng giáo dục HS những vấn đề có tầm quan trọng đối với thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay, như chủ quyền quốc gia, nhân quyền ( quyền trẻ em) bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, Trong mỗi bài lớn thường có đủ các kiểu loại văn bản cơ bản: truyện, thơ, văn bản thông tin. Mỗi văn bản đọc là trung tâm của một bài nhỏ. Khởi đầu bài học là hoạt động khởi động nhằm huy động trải nghiệm, hiểu biết và tạo tâm thế để HS đọc hiểu văn bản tốt hơn. Sau đó là đọc thành tiếng, đọc hiểu. Riêng đối với văn bản thơ, HS được nhận biết vần và học thuộc lòng. Đối với văn bản văn xuôi, HS được thực hành viết câu, nói và nghe, nghe viết chính tả, làm bài tập chính tả. Đôi khi có hoạt động kể chuyện hay đóng vai diễn lại câu chuyện đã đọc. Cuối mỗi bài học có thể có hoạt động tích hợp, mở rộng, vận dụng đa dạng. Sau một năm thực hiện tôi thấy: * Ưu điểm: * Đối với giáo viên: Phương pháp dạy học tiếng Việt giúp cho giáo viên nắm vững kỹ thuật dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tiến trình giờ dạy nhẹ nhàng, lôi cuốn học sinh thông qua hoạt động “nhận biết”. Giáo viên không phải cầm tay giúp học sinh tập viết mà các em tự tư duy bài giảng dưới hình thức nghe, hiểu và viết lại. Việc dạy học các vần riêng biệt kết thúc ở học kì 1, các vần ít thông dụng được chuyển sang học kì 2 và lồng ghép vào những văn bản đọc trọn vẹn. Thời lượng từ dạy học 10 tiết/tuần theo công nghệ lên 12 tiết/tuần theo chương trình GPDT mới, giúp giáo viên và học sinh có nhiều thời gian học và ôn tập hơn Tài liệu tham khảo chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của GV cũng đơn giản, nhẹ nhàng hơn, đa số tiến trình các hoạt động đều có trong sách giáo viên. * Đối với học sinh: - Sách Tiếng Việt khơi gợi hứng thú của học sinh qua những ngữ liệu đặc sắc, cách khai thác ngữ liệu sáng tạo và những hình ảnh sắc nét, sinh động. - Điểm mới của chương trình là học sinh được học kiến thức từ âm đến vần, thay vì phân tích các em được đánh vần, nhận biết các âm tạo thành tiếng, từ đầy đủ hơn. Phụ huynh ở nhà cũng có thể dạy các em đọc đánh vần, đọc trơn. * Hạn chế: Một số bài học đòi hỏi học sinh phải có sự tập trung cao, thao tác nhanh nhạy, mỗi bài học sinh phải tiếp nhận 3 - 4 vần, các dấu thanh không sắp xếp dạy theo thứ tự nên việc ghép, đánh vần các tiếng là hơi khó đối với các em học sinh nhất là các em khả năng tiếp thu chưa nhanh. Một số em đọc vẹt theo tranh, theo cô nên khi viết sẽ khó khăn. Nếu lớp có học sinh đông giáo viên rất vất vả. Tâm lý học sinh thấy bài đọc khó nên “ngại” không muốn đọc, dễ nảy sinh cảm giác sợ học. Tỉ lệ học sinh nhận diện chưa chắc chắn bảng chữ cái do các em chưa được sự quan tâm của gia đình. Một số em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học chưa tập trung, thụ động chưa ham thích học. Đa số phụ huynh trẻ đi làm tại các khu công nghiệp nên không có thời gian để kèm cặp các con. - Ngay từ đầu năm học tôi đã khảo sát thu được kết quả: Sĩ số Chưa thuộc bảng chữ cái Biết một số chữ cái Thuộc bảng chữ cái 34 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 13 HS 38,2% 9 HS 26,5% 12 HS 35,3% Từ những ưu điểm, hạn chế trong thực tế tôi đã thực hiện biện pháp “ Nâng cao hiệu quả rèn đọc cho các sinh lớp 1”. 3. Nội dung biện pháp Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu cơ sở lý luận, thực tiễn tôi nhận thấy rèn đọc có vị trí quan trọng đối với học sinh ở Tiểu học. Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và thực trạng của việc dạy- học đọc hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở Tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc để nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 với các giải pháp: *Giải pháp 1: Trao đổi với phụ huynh học sinh. * Giải pháp 2: Dạy học sinh nắm vững những nét cơ bản. * Giải pháp 3: Dạy học sinh nhận diện và đọc đúng phần đọc âm. * Giải pháp 4: Dạy học sinh nhận diện và phát âm đúng phần học vần. * Giải pháp 5: Rèn kĩ năng đọc tốt phần tập đọc. * Giải pháp 6: Vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức một cách hợp lý. * Giải pháp 7: Sử dụng những đồ dùng trực quan khoa học. 4. Cách thức thực hiện biện pháp * Giải pháp 1:Trao đổi với phụ huynh học sinh. Năm học 2021 – 2022 là năm thứ 2 triển khai chương trình thay sách giáo khoa 2018. Nên ngay trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi đã trao đổi với các bậc phụ huynh những điểm khác biệt của chương trình GDPT 2018 so với chương trình giáo dục hiện hành. Trong chương trình GDPT 2018 nhấn mạnh hơn tính phân hóa để phát huy sở trường của học sinh nhằm phát huy năng lực tổng hợp các lĩnh vực của học sinh 1 cách hợp lý, giúp học sinh biết khám phá, luyện tập, vận dụng và tự đánh giá. GV phải tổ chức, động viên học sinh hoạt động, trao đổi nhóm, nói lên ý nghĩ của mình. Trong chương trình học sinh được học thêm môn học mới đó là Hoạt Động Trải Nghiệm. Để đáp ứng được mục tiêu và cách đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh được thực hiện theo TT27/ BGD-ĐT tôi đã trao đổi hướng dẫn phụ huynh cách hướng dẫn con học tập tại nhà, cùng con trải nghiệm, thực hiện 1 số hoạt động nhằm giúp con khám phá kiến thức, vận dụng trong cuộc sống rèn tính tích cực, tự học, tự rèn để hoàn thành các hoạt động học tập ở lớp cũng như ở nhà. Để động viên khuyến khích các con làm và học tập bạn, tôi đã xây dựng các hình hình thức thi đua khen thưởng như: “ Đôi bạn cùng tiến” “ Sao chăm ngoan” cuối buổi học hoặc cuối tuần có nhận xét, khen thưởng động viên, nhắc nhở để các em có ý thức phấn đấu. Ngoài ra tôi còn tổ chức “ Câu lạc bộ cha mẹ học sinh”để giúp chia sẻ cách dạy con, rèn con và đã đạt được một số mục tiêu nhất định. *Giải pháp 2: Giúp học sinh nắm vững những nét cơ bản. Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi. Nhóm 1 Nét sổ thẳng,Nét ngang Nét xiên phải (giống dấu thanh huyền) Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc) Nhóm 2 Nét móc xuôi Nét móc ngược Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph) Nhóm 3 Nét cong hở phải (chữ c) Nét cong hở trái (chữ x) Nét cong kín (chữ o, ô, ơ) Nhóm 4 Nét khuyết trên (chữ h, l, b) Nét khuyết dưới (chữ g, y) Nét khuyết kép Nét thắt (chữ b, v, r) Nét khuyết, có nét thắt giữa(chữ k) Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc sâu kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a: nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to. Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi trả lời đúng, nhất là các em đọc chưa tốt hoặc đọc chậm đó là sự khích lệ rất lớn với các em. Đây là bài học đầu tiên trong phần Học vần nên cần tạo cho các em tâm thế học tập thoải mái, gần gũi, gây sự hứng thú. * Giải pháp 3: Dạy học sinh nhận diện và đọc đúng phần đọc âm. Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Hoạt động này được thiết kế dưới dạng yêu cầu học sinh quan sát tranh, nhận biết nội dung tranh và nói hoặc đọc theo giáo viên câu thuyết minh tranh. Câu này thường chứa các âm chữ hoặc vần được học trong bài thể hiện các sự việc, trạng thái có thể minh họa bằng hình ảnh trực quan. Hoạt động nhận biết này giúp cho học sinh có hứng thú khám phá bài học. Các em nói hoặc đọc câu thuyết minh lặp lại theo giáo viên nhờ quan sát tranh và nhờ vốn ngôn ngữ Tiếng Việt giúp học sinh hiểu đuợc ý nghĩ của câu. Qua đó cũng giúp cho học sinh phát triển về ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết ở cấp độ đơn vị giao tiếp nhờ đó kỹ năng đọc sẽ phát triển nhanh. Giai đoạn này tôi dạy cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái. Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp học sinh phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; b; p; q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. Đọc là: “dờ”. + Âm b gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên trái. Đọc là: “ bờ”. - Sang phần âm ghép,tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Ví dụ : + Các âm ghép: c + h = ch , n + h = nh , t + h = th , k + h = kh , g + h = gh , ng + h = ngh. - Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. Phân từng cặp: ch – tr , ng – ngh , c – k , g – gh , nh – d để phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt. Trong khi luyện phát âm tôi chú ý luyện phát âm đúng cho các em theo những hiện tượng khó: s với x, các dấu thanh. Âm s thì kĩ thuật phát âm là uốn đầu lưỡi về phía vòm, luồng hơi đi ra mạnh, không có tiếng thanh – tôi làm mẫu nhiều lần cho các em, âm x thì khi phát âm đầu lưỡi tạo ra với môi răng một khe hẹp, luồng hơi đi ra nhẹ, không có tiếng thanh. Hoặc với các cặp âm dễ lẫn, khó phát âm như: n – l, ch – tr, r – d, tôi cũng hướng dẫn cụ thể, chi tiết và sửa triệt để đối với những học sinh phát âm còn sai. Trong các tiết học, các bài học tôi luôn thay đổi hình thức kiểm tra các âm, chữ cái của học sinh thông qua trò chơi, các em tự đố nhau khi trò chuyện và lúc đó tôi cũng là một thành viên tích cực trong hoạt động này (Đặc biệt là các tiết ôn tập). Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho học sinh tránh sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Một hình thức mà tôi cảm thấy rất tâm đắc đó là viết phiếu, có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính giáo dục và rất gần gũi với các em. Ví dụ : Muốn kiểm tra vần et, êt, it thì tôi viết bảng con có các từ không có trong sách như: kết bạn, đất sét, dệt vải, giá rét, múi mít, hít thở,.tương tự như thế với các bài khác.Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào các em cũng đọc được. Thông qua các trò chơi: Đi chợ, chiếc bát từ vựng, học sinh thi tìm các tiếng, từ, câu có âm vừa học. Có thể cho học sinh nêu miệng hay ghép trên thanh cài, khi học sinh nêu được tiếng có chứa các âm vần vừa học – HS cả lớp sẽ phân tích – đánh vần – đọc trơn các tiếng đó nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh và giúp các em sẽ luyện đọc được tốt hơn. Hoặc thông qua trò chơi Đuổi hình bắt chữ cũng giúp cho học sinh có các kĩ năng quan sát, phân tích, phán đoán để tìm ra các âm vần vừa học. Ví dụ: Học bài âm h, GV cho HS quan sát hình ảnh hoa hồng, từ đó sẽ liên tưởng và nêu được tiếng “ hoa” có chứa âm h. Để rèn kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động luyện nói tôi vận dụng các vần, tiếng, từ đã học để tạo thành những câu văn, đoạn văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5,20/ 11, 22/12... để xây dựng bài cho học sinh đọc và nói. * Giải pháp 4: Dạy học sinh nhận diện và phát âm đúng phần học vần. Để giúp HS nhận diện và phát âm đúng phần học vần GV cần phải giúp các em nhận diện đúng các âm sau đó lựa chọn và hướng dẫn HS cách đánh vần phù hợp với từng đối tượng học sinh của mình ( không nên quy định một cách cứng nhắc cách đánh vần nào) Ví dụ: Chẳng hạn với tiếng bàn có thể áp dụng những các sau đây: * Cách 1: bờ - an – ban – huyền – bàn ( dành cho HS có kĩ năng đọc bình thường) * Cách 2: a – nờ - an – bờ - an – ban – huyền – bàn ( dành cho HS có kĩ năng đọc hạn chế) - Ngoài ra, nếu học sinh nào không cần đánh vần thì có thể cho các em đọc trơ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_ren_doc_ch.docx