Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5 làm tốt văn miêu tả

docx 18 trang Xuân Hạnh 20/04/2025 270
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5 làm tốt văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5 làm tốt văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 5 làm tốt văn miêu tả
PHÒNG GD- ĐT PHƯỚC SƠN
TRƯỜNG TH&THCS PHƯỚC HÒA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc
 Phước Sơn, ngày 6 tháng 3 năm 2020

BÁO CÁO
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 LÀM TỐT VĂN MIÊU TẢ
I. Thông tin chung
Họ và tên người thực hiện: Đặng Thị Trị
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường TH&THCS Phước Hòa 
Nhiệm vụ được giao trong đơn vị: Chủ nhiệm lớp 5A - TTCM
II. Nội dung:
1.Tình trạng trước khi đề xuất giải pháp và sự cần thiết cải tiến: 
1.1. Lí do chọn đề tài: 
 Tiếng Việt là tiếng phổ thông của dân tộc Việt Nam. Trong nhà trường Tiểu học, Tiếng Việt là đối tượng mà học sinh cần chiếm lĩnh. Đồng thời, cũng là một môn học được gọi là môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về tiếng Việt. Học tập môn này, học sinh còn được bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
     Trong chương trình Tiểu học mới, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất và là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.
     Với học sinh lớp Năm, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho các em là cần thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn miêu tả sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em khám phá được những cái đẹp qua việc xây dựng văn bản.
 Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói riêng,
tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt văn miêu tả.
1.2.Giới hạn đề tài:
- Tập trung vào Tập làm văn dạng miêu tả (tả cảnh, tả người) ở lớp 5.
- Học sinh lớp 5A trường Tiểu học và Trung học cơ sở Phước Hòa.
1.3. Cơ sở lí luận:
 Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn.
     Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả người, tả cây cối, tả đồ vật.) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ - câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,...Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
     Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học. Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.
     Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.
1.4. Cơ sở thực tiễn: 
a. Giáo viên
- Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho học sinh trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học. 
- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai.
b. Học sinh
Năm học này bản thân tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A. Tổng số học sinh lớp tôi gồm 22 em. Trong đó 100% con em người dân tộc thiểu số. Số con em
mồ côi (6 em); học sinh diện hộ nghèo 15 em và học sinh khuyết tật (3em) nhiều
 nhất trường. Qua khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy hầu hết các em còn rất hạn chế khi làm Tập làm văn. Mặc dù ở lớp 4 các em đã được học văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật nhưng điểm bài làm của các em vẫn rất thấp. Những hạn chế chủ yếu của các em như sau: 
- Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của học sinh. Vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 5 lại yêu cầu sử dụng vốn từ ngữ, năng lực tư duy rất lớn. 
- Vốn từ của học sinh chưa phong phú, các em chưa hiểu hết nghĩa của từ nên
việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót.
 Chương trình tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo
của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh DTTS.
- Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp 
làm mẫu đối với học sinh DTTS dẫn đến tình trạng học sinh nhìn nhau, học thuộc bài văn mẫu. 
- Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh học chậm, cá biệt có học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho học sinh. Với số học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo yêu cầu. 
- Hầu hết học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em phải phụ giúp với gia đình trong công việc đồng áng, nương rẫy. Việc bảo đảm chuyên cần cho học sinh DTTS rất khó. Các em rất hay nghỉ học vì nhiều lí do như ở nhà giúp gia đình,  hoặc nhiều khi chỉ vì “không muốn đến lớp”. Đi học không đều, việc tiếp thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.
- Kĩ năng làm văn miêu tả của học sinh DTTS hầu như không có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn mà hầu như bê nguyên si cả những điều đã biết vào bài văn, tạo cho bài văn thành một mớ hỗn độn của các chi tiết hoặc thành một bản liệt kê khoa học 
- Bài viết còn mắc nhiều lỗi chính tả.
- Chưa xác định trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về , lủng củng.
- Vốn từ còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt.
- Chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
- Chưa biết cách đặt câu, chưa biết tả những chi tiết cụ thể nổi bật.
- Ngoài ra trong quá trình giảng dạy, tôi thấy các em thường hay tập trung học toán chứ ít ham học Tập làm văn. Nhiều phụ huynh và đôi khi kể cả giáo viên cũng cho rằng em nào có khiếu văn thì mới học tốt phân môn này. Đây trở thành
là một thách thức đối với giáo viên Tiểu học mà nhất là với những giáo viên đang dạy lớp 4, 5.
c. Cha mẹ học sinh
Cha mẹ các em hầu như không quan tâm đến các em do hoàn cảnh khó khăn
phải vất vả mưu sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do trình độ không có
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh chưa hoàn thành phân môn Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân:
Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tảKhi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
- Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.
 - Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
 - Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
2. Nội dung chi tiết của giải pháp:
Để giúp học sinh lớp mình có vốn từ phong phú, sử dụng từ chính xác và câu văn có hình ảnh, là giáo viên chủ nhiệm, bản thân tôi dạy tốt và bám sát chương trình Tiếng Việt (như Tập đọc, Kể chuyện , Chính tả, Luyện từ và câu). Đặc biệt là ở phân môn Tập làm văn, từng tiết học tôi cho học sinh nắm chắc bố cục, cách tiến hành đoạn văn, bài văn. Song kĩ năng đặt câu văn hay và dùng từ trong bài văn là một việc rất quan trọng, cần cân nhắc lựa chọn kĩ càng. Để làm tốt việc này tôi đã làm một số biện pháp sau:
 Biện pháp 1. Điều tra phân loại học sinh
Ngay từ đầu năm tôi đã điều tra phân loại học sinh, nắm chắc từng đối tượng học sinh của lớp mình như: học sinh năng khiếu, học sinh học tốt, học sinh học còn chậm... Sau khi nắm chắc được đối tượng học sinh, tôi sẽ đề ra được kế
hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học giúp vun xới, phát triển
năng lực học văn của học sinh năng khiếu. Đồng thời, tôi cũng có biện pháp phù hợp giúp học sinh học còn chậm, học sinh khuyết tật biết làm văn miêu tả, có thể
vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh. 
 Biện pháp 2: Tích lũy kiến thức:
 Thứ nhất là kiến thức từ các tác phẩm văn học: Thông qua các tiết Tập đọc, học thuộc lòng, kể chuyện .. có trong chương trình mà nhất là những bài có thể loại miêu tả. Đối với những tiết học này, bản thân tôi dạy rất kĩ. Ngoài những nội dung cơ bản trọng tâm trong bài, tôi còn cung cấp cho HS về cách cảm thụ văn học, nhận thấy cái hay, cái đẹp qua cách dùng từ, viết câu, sử dụng biện pháp tu từ, cách miêu tả của tác giả. Ngay trong cách đọc của học sinh trong các bài tập đọc, học thuộc lòng tôi cũng chú ý nhiều đễn cách đọc diễn cảm
 Thứ hai là từ vốn sống thực tế: Cuộc sống xung quanh các em thật phong phú, hướng các em biết hòa mình với thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá...mỗi khi có dịp. Để chuẩn bị tả cảnh cánh đồng lúa hay tả buổi sáng ở quê em, tôi đều giao việc cho các em về nhà lựa chọn thời gian phù hợp quan sát cánh đồng vào thời điểm đó có gì đặc biệt: màu sắc như thế nào, khung cảnh xung quanh ra sao.... sau đó về ghi chép lại....hay cảnh quê em buổi sáng....
Biện pháp 3: Quan sát và ghi chép
 	Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Tôi chú ý cho các em việc quan sát và vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp: Xa hay gần, trong hay
ngoài. Khi quan sát, cần giúp các em không chỉ quan sát bằng mắt mà phải huy động tất cả mọi giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, khướu giác ...Tùy từng kiểu bài có cách quan sát khác nhau. Ví dụ đối với tả cảnh, quan sát theo trình tự thời gian, theo đặc điểm nổi bật của từng cảnh và theo từng góc độ của cảnh. Cũng có thể quan sát theo trình tự từ xa đến gần hoặc ngược lại. Đối với văn tả người cần quan sát kĩ ngoại hình rồi mới đến tính tình, hoạt động.
*Ghi chép: Quan sát luôn đi liền với ghi chép. Ngay từ đầu năm học tôi cho mỗi em trong lớp làm riêng một quyển sổ tay văn học và hướng các em ghi chép: Khi quan sát một cảnh hoặc một người nào đó, các em cần lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc ghi vào sổ tay. Hay thông qua các bài tập đọc, các bài thơ, bài đọc thêm các em phát hiện một ý hay, một câu văn hay thì nên ghi ngay vào sổ của mình.
Biện pháp 4: Thực hành tốt các dạng bài tập sau: Thực hành vào những tiết luyện tiếng Việt 
Dạng 1: Hướng dẫn học sinh cách dùng từ:
 	Ở lớp 1, 2, 3, 4 các em đã được mở rộng và làm phong phú vốn từ, lên lớp Năm các em vẫn tiếp tục thực hiện công việc đó. Nhưng việc dùng từ của các e
em đôi lúc chưa chính xác. Mà dùng từ chính xác là một trong những yêu cầu 
hành kiểu bài tập sau:
- GV đưa ra đối tượng miêu tả.
- HS tìm từ tả đối tượng đó.
- Trong quá trình tìm từ, GV giúp HS chắt lọc ra những từ ngữ chính xác, gợi tả và cho HS thực hành đặt câu sau đó viết đoạn văn tả đối tượng đó.
* Ví dụ: Tả một người mà em yêu mến
Đối tượng
Từ ngữ cần dùng (đã được giáo viên và học sinh chắt lọc)
Câu, đoạn văn (Học sinh hình thành)
Bà
nâu, bạc trắng, nhăn nheo, hóp, đôn hậu, đường gân
Da bà chuyển sang màu nâu, đã có những chấm đồi mồi.. Mái tóc bà bạc trắng như cước trông giống những bà tiên trong chuyện cổ tích. Khuôn mặt nhăn nheo, hai má hóp lại nhưng toát lên vẻ đôn hậu. Bàn tay, bàn chân bà nổi rõ những đường gân dưới lớp da mỏng.

Cô giáo
thon thả, trái xoan, trong xanh , cong vút, đen huyền, đỏ hồng...
Cô em có dáng người thon thả rất phù hợp với những bộ áo dài cô đang mặc. Cô có khuôn mặt trái xoan lúc nào cũng nở nụ cười thật tươi. Nổi bật trên khuôn mặt ấy là đôi mắt trong xanh với hai hàng lông mi cong vuốt. Mái tóc đen huyền luôn buông xoã đến quá vai....

 *Tả cảnh
Đối tượng
Từ ngữ cần dùng
Câu, đoạn văn
Ngôi trường
Khang trang, đỏ tươi, đồ sộ, cao vút, phần phật
Toàn bộ ngôi trường được sơn màu vàng trông thật khang trang, sạch đẹp. Mái lợp ngói đỏ tươi. Từ cổng vào, ngay chính giữa của ngôi trường đồ sộ là cột cờ cao vút. Trên đỉnh cột, lá cờ đỏ sao vàng phần phật bay trước gió....

*Tả cây cối (Tả cây bàng)
Đối tượng
Từ ngữ cần dùng
Câu , đoạn văn
Gốc cây
To, màu nâu, rễ
Gốc bàng to, màu nâu xỉn, mấy rễ lớn trồi lên mặt đất.
Thân bàng
Cao to, xám, vết trầy xước
Thân cây cao, to một vòng tay em ôm không xuể. 
Lá bàng
xanh tươi, nõn nà
Mùa xuân đến, bàng bắt đầu nảy lộc, lá xanh tươi một màu nõn nà, óng ả....
Dạng 2: Hướng dẫn HS dùng cặp từ quan hệ
Ở chương trình lớp Năm các em đã học từ chỉ quan hệ và các em cũng đã từng
đặt câu văn có quan hệ từ như: nhưng, mà, tuy, song,... và các cặp quan hệ từ như: Nếu...thì; tuy... nhưng; chẳng những...mà còn...Mà những câu văn có cặp từ chỉ quan hệ có tác dụng ý định nói ở vế sau. Chính vì vậy, để có câu văn, đoạn văn hay giáo viên có thể cho HS thực hành nhiều với dạng này. Hình thức bài tập làm như sau:
- GV cần đưa ra câu văn có ý định tả
- HS dùng từ chỉ quan hệ và thêm một ý mà HS định nhấn mạnh
* Ví dụ tả cảnh
Câu văn GV đưa ra
Câu văn HS hoàn chỉnh
- Ngôi trường em không rộng.
- Mưa to, gió mạnh cả quê em chìm ngập trong màn nước trắng xoá.
- Chiếc cặp không đẹp lắm.
- Ngôi trường em không rộng lắm nhưng cũng đủ cho học sinh chúng em vui chơi thoả mái.
- Mưa càng to gió càng mạnh, cả quê em chìm ngập trong màn nước trắng xoá.
- Tuy chiếc cặp không đẹp lắm nhưng nó rất bền.

Dạng 3: Hướng dẫn học sinh dùng từ thay thế để liên kết câu
Bài văn của học sinh còn tồn tại một vấn đề là câu văn còn lặp lại từ ngữ dẫn đến bài văn không hay, luộm thuộm. Để giải quyết thực trạng này, GV có thể giúp HS thay thế các từ ngữ lặp lại bằng các đại từ thay thế như: nó, ở đấy...hoặc dùng bộ phận song song để ghép các ý lại. Đối với dạng này GV dạy kĩ ở tíêt LTVC và cần rèn luyện cho HS bằng hình thức: GV đưa ra đoạn văn, câu văn có từ ngữ lặp lại cho HS thay thế để tránh sự lặp lại đó.
Ví dụ: Tả người và tả cảnh:
Câu văn, đoạn văn của GV
Câu văn, đoạn văn của HS
- Thảo có vóc dáng dong dỏng cao. Thảo có mái tóc tơ mịn. Thảo có đôi mắt trong xanh .
-Trường em là trường Tiểu học và Trung học cơ sở Phước Hòa. Trường em nằm trên một khu đất rộng và bằng phẳng giữa thôn 1 xã Phước Hòa. Trưòng em mới được xây cất lại trông thật khang trang
-Thảo có vóc dáng dong dỏng cao. Bạn có mái tóc tơ mịn luôn cắt ngắn đến bờ vai. Đẹp nhất ở cô bạn gái ấy là đôi mắt trong xanh. 
-Trường em là trường Tiểu học và Trung học cơ sở Phước Hòa. Trường nằm trên một khu đất rộng và bằng phẳng ở giữa thôn 1 xã Phước Hòa. Mới đây, ngôi trường được xây cất lại trông thật khang trang.

Dạng bài tập 4: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp so sánh:
 Ở các lớp dưới và trong chương trình lớp Năm các em đã được học và thực hành làm bài tập so sánh với những hình ảnh có sẵn. Tuy nhiên, các em chưa động não liên tưởng để tìm ra hình ảnh cần so sánh, hoặc so sánh chính xác. Để rèn luyện dạng này, tôi làm dạng bài tập sau:
- GV đưa ra câu văn miêu tả, 
- HS tìm ra hình ảnh so sánh, từ so sánh và đặt lại câu văn có hình ảnh so sánh.
* Ví dụ:
Câu văn giáo viên đưa ra
Hình ảnh so sánh (HS)
Câu văn, đoạn văn của HS
- Cổng trường thật uy nghi
- Trang có làn da mịn màng.
- Đầu búp bê tròn.
người lính gác
trứng gà bóc
quả bóng nhỏ
- Cổng trường uy nghi như người lính gác làm nhiệm vụ bảo vệ trường.
- Trang có làn da mịn màng như trứng gà bóc
- Đầu búp bê tròn như quả bóng.

Dạng 5: Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp nhân hóa:
 Trong chương trình, các em mới tìm được hình ảnh nhân hoá nhưng rất ít. Chính vì vậy bài văn miêu tả của của HS thường chưa sinh động, rất hiếm sự vật được nhân hóa. Để các em có kĩ năng thành thạo nhân hóa trong viết văn, giáo viên nên cho học sinh rèn luyện nhiều từ câu văn đến đoạn văn. Dạng bài này cũng giống như bài tập so sánh
Câu văn của GV
Câu văn của học sinh(có nhân hóa)

- Ông mặt trời tỏa những tia nắng ấm áp xuống sân trường.
- Mỗi khi có gió thổi qua thì những bông lúa cọ vào nhau xào xạc

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_l.docx