Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học

doc 20 trang Xuân Hạnh 24/04/2025 340
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học
PHẦN MỞ ĐẦU
1) Lý do chọn đề tài :
Nói đến ngôn ngữ là nói đến công cụ dùng để giao tiếp trong cuộc sống. Có ngôn ngữ thì mới có quan hệ xã hội và quan hệ xã hội chính là nơi để phát triển ngôn ngữ. Hằng ngày, người Việt Nam ta nói với nhau bằng tiếng Việt và cũng hằng ngày, báo chí, đài phát thanh, truyền hình và các thông tin đại chúng của chúng ta phát ra khắp thế giới chữ viết, tiếng nói giàu đẹp của chúng ta. Tiếng nói ấy lâu đời như dòng giống của chúng ta, nó đã trở nên thứ “Của cải vô cùng quý báu” (Hồ chủ tịch) của dân tộc.
Thật là sung sướng và tự hào khi ta có thể dùng tiếng Việt để diễn đạt bất kỳ tư tưởng cao sâu nào, để trình bày bất cứ kiến thức khoa học phức tạp và hiện đại nào. Chỉ một điều đó cũng chứng tỏ rằng tiếng Việt ta giàu có. Chúng ta có rất nhiều từ để chỉ về vật, về hiện tượng vật chất, tâm lý và tinh thần khác nhau, Chúng ta có thể phân biệt một cách tế nhị rộng với rộng rãi, thênh thang, mênh mông,Chúng ta nói to nhưng còn nói lớn, nhỉnh, to tát, lớn lao, đó chính là cái giàu, cái tinh tế của ngôn ngữ chúng ta.
Làm sao mà tiếng Việt của chúng ta giàu được? “Tiếng ta giàu bởi vì đời sống muôn màu, bởi đời sống và tư tưởng tình cảm dồi dào của dân tộc ta, bởi kinh nghiệm đấu tranh xã hội, đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm; bởi kinh nghiệm bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước” (Phạm Văn Đồng). Tiếng nói của chúng ta không những giàu mà còn đẹp nữa. Nhà thơ vĩ đại người Pháp, Vích To Huy Gô nói rằng “Trong những câu thơ lớn, các từ vừa lướt qua vừa nhảy múa”. Trong tiếng ta, có rất nhiều từ không những “nhảy múa” mà còn hát lên những câu hát trong vắt, vẽ lên những bức tranh linh hoạt muôn màu. Xuất phát từ đó, môn tiếng Việt, môn học có vị trí nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc hình thành ngôn ngữ giao tiếp, là thứ ngôn ngữ dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã được ra đời và đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Nó có một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cao cả đó là cung cấp những kiến thức cơ bản cho học sinh về tiếng Việt qua các hình thức (nghe, đọc, nói, viết) góp phần hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh cho tâm hồn học sinh. Qua đó tích luỹ vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em, rèn luyện, phát triển kỹ năng nói và hiểu một cách có nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy hình tượng của trẻ.
Tuy nhiên, trình độ hiện nay của học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng về tiếng Việt còn thấp. Bên cạnh đó những học sinh biết nói, biết viết rõ ràng, mạch lạc và có khi trong sáng nữa, còn rất nhiều học sinh chưa biết dùng tiếng Việt một cách thành thạo để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm của mình : Phát âm sai, viết sai chính tả, dùng từ không đúng, không biết đặt câu, chấm câu.
Vậy làm thế nào để khắc phục được những tình trạng trên, cải tiến được những sai sót mà học sinh hiện nay còn mắc phải? Đó chính là nội dung đề tài mà tôi đã chọn nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học”.
2) Lịch sử vấn đề ;
Đã từ xa xưa, khi con người sinh ra thì ngôn ngữ cũng ra đời và phát triển dần theo. Trải qua các thời kỳ, ngôn ngữ cũng thay đổi và phát triểán song hành với sự giao tiếp chuẩn mực. Từ sau cách mạng tháng Tám, đi đôi với nạn xoá mù chữ, tiếng Việt đã được dùng để giảng dạy tất cả các môn học ở các cấp học trong nhà trường phổ thông, kể cả bậc đại học. Nhiệm vụ của nhà trường không chỉ sửa chữa các thiếu sót của học sinh mà còn phải không ngừng phát triển và hoàn thiện trình độ ngôn ngữ của học sinh theo mức độ chuẩn mực. U.U.Rêz-nep-ski đã nói : “ Quá trình phát triển tiếng mẹ đẻ đối với con người không gián đoạn theo thời gian, sức mạnh tâm hồn của con người phải được phát triển trong suốt quá trình đó, thông qua mọi hoạt động đời sống của con người”. Nhà trường phải phát triển ở học sinh ngôn ngữ chính xác, không cản trở việc hiểu lẫn nhau (ví dụ như lệch chuẩn), ngôn ngữ trong sáng (nghĩa là không lạm dụng sự vay mượn ngôn ngữ). Ngôn ngữ của học sinh không phải là cái gì đó có sẵn, ổn định; ngôn ngữ của học sinh các cấp có điểm khác nhau, tuy nhiên cũng có điểm chung. Nó đòi hỏi không ngừng được phát triển. Dưới các ảnh hưởng khác nhau, nó có thể phát triển nhanh hay chậm. Nhiệm vụ của nhà trường là làm sao tổ chức quá trình phát triển đó, định hướng phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngôn ngữ. Đặc biệt là học sinh lứa tuổi tiểu học, đây là cái nôi của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ cho các em. Ngay từ khi bước chân đến trường các em đã được làm quen với ngôn ngữ giao tiếp có định hướng, có căn bản để từ đó ngôn ngữ cũng phát triển lớn mạnh dần theo năm tháng học tập của các em. Chính vì vậy mà đã có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ cho học sinh trong trường phổ thông nói chung và ở tiểu học nói riêng như tác giả Trươong Dĩnh đã có công trình nghiên cứu riêng về “phát triển ngôn ngữ trong trường phổ thông”; tác giả Lê Phương Nga đã có công trình nghiên cứu về dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học,tất cả đã tập trung chuyên sâu cho lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho học sinh trong thời kỳ đổi mới. Đây cũng là vấn đề mà đề tài đang hướng tới nội dung nghiên cứu một số biện pháp nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học.
3/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
3.1/ Mục đích nghiên cứu :
Mục đích của đề tài là khảo sát thực tế việc dạy học và nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học. Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong hiện nay.
3.2/ Nhiệm vụ nghiên cứu :
Với thời gian có hạn đề tài tập trung chủ yếu vào một số nhiệm sau :
- Nghiên cứu lý luận về việc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
- Thực tế việc dạy học tiếng Việt ở trường tiểu 
- Đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học theo chương trình đổi mới.
4/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1) Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những lý luận và thực tế việc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học.
4.2) Phạm vi nghiên cứu :
Vì thời gian có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu nội dung việc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học trong trường tiểu học .........– xã Nam Đà – Huyện Krông Nô – tỉnh Đăk Nông.
5/ Phương pháp nghiên cứu:
5.1/ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Là phương pháp nghiên cứu tài liệu về việc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học.
5.2/ Phương pháp phân tích: Là phương pháp được sử dụng khi đã có nội dung lý luận nhằm tiến hành phân tích các yếu tố cơ bản của nội dung cần nghiên cứu .
5.3/ Phương pháp tổng hợp : Được sử dụng dựa trên kết quả đã phân tích. Tôi tiến hành tổng hợp và kết luận về nội dung nghiên cứu. Từ đó có cơ sở để đề xuất một số ý kiến trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC NGÔN NGỮ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Năng lực ngôn ngữ với vấn đề học tập và cuộc sống của học sinh:
1.1/ Năng lực ngôn ngữ với vấn đề phát triển tư duy và nhân cách của học sinh tiểu học:
Ngôn ngữ và tư duy là thống nhất. Khi chưa có ngôn ngữ thì con người chưa thể phân biệt hai khái niệm khác nhau (nghĩa là chưa có tư duy). Nhưng khi ngôn ngữ xuất hiện thì tư duy cũng hình thành và phát triển theo ngôn ngữ. Tuy nhiên, tư duy và ngôn ngữ không đồng nhất. Tư duy là thuộc khoa học logic, còn ngôn ngữ là thuộc khoa học ngôn ngữ. Chính vì vậy, nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học không thể không thấm nhuần các quan điểm thống nhất và không đồng nhất của tư duy và ngôn ngữ đã nêu ở trên. Người ta nói : “Văn tức là người”. Điều ấy có nghĩa là khi ngôn ngữ đã thành văn, tức là một tác phẩm thể hiện một cách tổng hợp trình độ tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, diễn đạt của con người thì ngôn ngữ lúc đó phản ánh đúng nhân cách của con người. Việc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học phải nâng cao phẩm chất quan trọng của nhân cách các em như tính trung thực trong tư tưởng, trong sáng trong sự thể hiện mình, khoa học trong phương pháp sống và làm việc, trật tự, kỷ luật, nề nếp trong tác phong, khiêm tốn, tôn trọng người khác trong giao tiếp,
1.2/ Năng lực ngôn ngữ với vấn đề học tập văn chương của học sinh:
Việc phát triển năng lực ngôn ngữ nghệ thuật của học sinh tiểu học sẽ giúp các em học văn chương có hiệu quả. Goocki đã từng nói : “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn chương”. Muốn thâm nhập văn chương, người học không thể không vượt qua ngưỡng cửa của ngôn ngữ, thông qua việc tri giác hình tượng của ngôn ngữ. Khi đã thâm nhập vào hình tượng, thực chất của hiểu văn chương là đối lập các sắc thái ngôn ngữ trung hoà với sắc thái biểu cảm có tính chất phong cách tu từ học. Mặt tiềm năng không đầy đủ về phân tích và hiểu biết các mô hình từ, câu, đoạn phong cách ở dạng trung hoà được rèn luyện qua chương trình tiếng Việt sẽ hạn chế khả năng đối lập tu từ học, tức là hạn chế khả năng hiểu văn chương.
Do đó việc dạy học môn tiếng việt trong trường tiểu học người giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ giữa quá trình dạy “cấu trúc văn” và dạy “văn”. Hay nói cách khác là phát triển ngôn ngữ đúng phải dẫn đến một bước cao hơn là phát triển ngôn ngữ “hay”, ngôn ngữ văn chương cho học sinh.
1.3/ Năng lực ngôn ngữ với khả năng tham gia cuộc sống của học sinh:
Nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học chính là nhiệm vụ quan trọng của công tác phát triển ngôn ngữ, chuẩn bị cho học sinh tham gia cuộc sống. Giao tiếp ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các thành tố : nguồn tin, nguồn phát, mã, kênh. Giao tiếp còn phải tính đến tạp âm và phần thừa. Ngôn ngữ được xem là mã lời nói là thông báo cụ thể, ngôn ngữ là cái tiềm tàng và qua giao tiếp , cái tiềm tàng đó sẽ được hiện thực hoá và phát triển. Giao tiếp ngôn ngữ như một hình thức ngôn ngữ tham gia vào cuộc sống sẽ là yếu tố trung gian để con người truyền đạt và tiếp thu kinh nghiệm cuộc sống. Khi được người giáo viên nâng cao năng lực ngôn ngữ, học sinh sẽ lấy đó làm nền tảng khi giao tiếp ngoài xã hội một cách trực tiếp (đối thoại, hội thoại,..) và gián tiếp (viết văn, viết đơn từ,) và cũng từ đó năng lực ngôn ngữ của các em ngày càng được nâng cao và phát triển.
2/ Các nguyên tắc nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh:
2.1/ Nâng cao năng lực ngôn ngữ phải nâng cao năng lực giao tiếp bản ngữ của học sinh:
Năng lực giao tiếp bao gồm năng lực hiểu ngôn ngữ của người khác và làm cho người khác hiểu ngôn ngữ của mình. Hiệu quả của giao tiếp ngôn ngữ thể hiện ở sự trùng hợp cao nhất giữa nội dung lời nói phát ra và nội dung lời nói nhận được và lúc đó mục đích giao tiếp ngôn ngữ đạt tối ưu. Hiệu quả giao tiếp đạt mục đích giao tiếp còn thể hiện ở chỗ nghe mau, hiểu mau. Hiệu quả đó phụ thuộc vào nhiều điều kiện : trình độ toàn diện của người giao tiếp, mã giao tiếp vấn đề giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, Phát triển ngôn ngữ cho học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao thực chất là thực hiện tốt mối quan hệ giữa năng lực ngôn ngữ và sự thực hiện ngôn ngữ, trên cơ sở năng lực ngôn ngữ mà thực hiện ngôn ngữ và năng lực ngôn ngữ phải hướng đến sự thực hiện ngôn ngữ. Năng lực ngôn ngữ là số lượng hạn định về mô hình, cấu trúc ngôn ngữ được khái quát từ kinh nghiệm bản ngữ và được học sinh ý thức qua việc dạy – học chương trình tiếng Việt.
Một thực tế hiện nay cho thấy môi trường học tập ở Tây Nguyên nói chung về nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao đó cũng là do ảnh hưởng của bản ngữ. Bởi học sinh nơi đây không đồng nhất về ngôn ngữ giao tiếp (có em là người Bắc, có em là người Nam và cả học sinh thuộc đồng bào dân tộc thiểu số). Trong khi đó giáo viên cũng là những người ở từ các vùng miền khác nhau đến đây giảng dạy. Do vậy rất khó có thể nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh một cách hoàn thiện và đồng nhất nếu không biết nâng cao năng lực giao tiếp bản ngữ của học sinh.
Ví dụ : Trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 có nội dung về mở rộng vốn từ thuộc các chủ điểm mà chương chương trình đã cho, khi dạy về mở rộng vốn từ “Công dân”, giáo viên cần mở rộng thêm một số vốn từ vừa có liên quan đến công dân vừa là những từ ngữ mà tại địa phương học sinh thường sử dụng như : người dân, công nhân xí nghiệp, người lao động, nhằm giúp cho học sinh lấy những từ ngữ của địa phương làm gốc để hiểu về công dân, qua đó các em sẽ nắm được nghĩa của từ công dân.
 2.2/ Phát triển và nâng cao năng lực ngôn ngữ phải nhằm nâng cao nhân cách và tư duy học sinh:
Việc nâng cao năng lực ngôn ngữ sẽ có ảnh hưởng tốt đến mọi mặt nhân cách của học sinh: Lý tưởng, trí tuệ, tình cảm, ý chí. Tác dụng giáo dục đó được thể hiện thông qua nội dung, Phương pháp giảng dạy ngôn ngữ và cả nhân cách của người giáo viên. Giáo viên có thể phát huy tác dụng giáo dục học sinh một cách sinh động qua các bài tập, các ví dụ cụ thể trên bài học hay các hoạt động ngoài giờ có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của các em.những yêu cầu về tính trung thực, tính chính xác và cụ thể khi giúp học sinh trực tiếp làm bài tập, nghiên cứu và phân tích những bài tập cũng là rèn luyện nhiều đức tính về nhân cách. Quan trọng hơn về tác dụng phát triển ngôn ngữ là việc rèn luyện tư duy biện chứng và tư duy logic cho học sinh.
Cần làm cho học sinh hiểu được, lịch sử, quy luật, quy tắc, đặc điểm của tiếng Việt, sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng việt qua các tác phẩm văn học. Những bài tập phát triển ngôn ngữ, học sinh phải nhận biết được đâu là ngữ âm, đâu là từ vựng và như thế nào là cấu trúc ngữ pháp, Ta có thể rèn cho học sinh các thao tác đối chiếu, so sánh qua các bài tập về ngữ âm để phân biệt âm và âm tiết, chữ cái và chữ, hoặc qua các bài học về phân môn luyện từ và câu còn tạo cho học sinh sự nhận biết về từ loại, so sánh thành phần phụ, câu đơn, câu ghép, qua đó giúp cho học sinh hệ thống hoá lại kiến thức đã học và lập bảng ôn. 
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc lớp 4 “Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa” (Tuần 21), ngoài việc rèn luyện kỹ năng nghe, đọc trơn, đọc diễn cảm,..cần cung cấp thêm một số tư liệu về Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, qua đó hướng học sinh vào ý nghĩa của nội dung bài một cách sâu sắc, giúp các em cảm nhận được giá trị của nội dung thì chắc chắn các em sẽ lấy gương của anh Hùng Trần Đại Nghĩa làm điểm tựa cho mình rèn luyện nhân cách (rèn tính chăm học, nghiên cứu khoa học, tinh thần yêu nước,)
2.3/ Cần kết hợp chặt chẽ việc dạy tiếng Việt với việc dạy cảm thụ văn học để phát triển và nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh tiểu học:
Khi năng lực ngôn ngữ được phát triển phải đạt đến trình độ hiểu và cảm thụ được những giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm mà chương trình đã đem đến. Do đó phát triển và nâng cao năng lực ngôn ngữ không thể không kết hợp dạy tiếng với cảm cảm thụ.
Hiện nay theo chương trình sách giáo khoa mới, ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng Việt thì ngay từ lớp 1,2 học sinh cũng đã được tiếp xúc và cảm thụ qua các tác phẩm văn, thơ truyện cười, bởi khi bước chân vào ngưỡng cửa bậc tiểu học các em đã có một ít vốn liếng của Tiếng Việt, các em bắt đầu học chữ, học viết và tập phát âm đúng, chuẩn Tiếng Việt từ đó các em dần dần cảm nhận về giá trị nghệ thuật trong tác phẩm, thấm nhuần ý nghĩa giáo dục, tăng thêm niềm vui, niềm tự hào và tình yêu trong mỗi cá nhân các em. Biện pháp nghệ thuật xuất hiện trong các tác phẩm ở tiểu học với một mục tiêu rất lớn đó là cung cấp cho học sinh những giá trị đạo đức, nhân văn mà tác giả muốn gửi đến và qua đó tô điểm thêm cho vẻ đẹp của văn bản làm cho học sinh thêm phần cuốn hút khi tiếp xúc với nội dung văn bản.
Ví dụ khi dạy bài thơ “Tiểu đội xe không kính” (TV lớp 4 – tuần 25) ngoài việc rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cơ bản trong chương trình yêu cầu, giáo viên cần sưu tầm thêm một số hình ảnh, hay đoạn phim về sự hy sinh, gian khổ của các anh bộ đội cụ Hồ để khắc sâu những hình ảnh đó vào tâm trí các em, giúp cho các em cảm thụ một cách thấm nhuần nhất sự hy sinh cao cả của các anh để dành độc lập tự do cho Tổ quốc
2.4/ Mẫu hoá, mô hình hoá và cấp độ hoá việc phát triển và nâng cao năng lực ngôn ngữ cho học sinh:
Kỹ năng ngôn ngữ phát triển là kỹ năng phân tích và sáng tạo biến thể ngôn ngữ theo tình huống giao tiếp. Hiểu và và tạo biến thể nhất thiết phải dựa trên sự đối lập, đối lập với cấu trúc cơ bản (cấu trúc chìm). Nếu nắm chắc được cấu trúc cơ bản, học sinh có thể phân tích một cách nhanh chóng và sáng tạo biến thể. Đối với học sinh tiểu học là lứa tuổi tính chủ định chưa bền vững, các em còn mang tính trực quan sinh động, do đó khi giao tiếp, những biến thể giao tiếp câu thường vượt cấu trúc cơ bản, có thể làm cho các em nhầm lẫn về cấu trúc, do đó phải cấp độ hoá cấu trúc ngôn ngữ thuộc các hệ thống xác định để học sinh phân biệt khi nào thì biến thể còn trong cấp độ, khi nào thì vượt cấp độ.
Ví dụ : Khi dạy bài : “Câu ghép” (Luyện từ và câu lớp 5-tuần 19), ngoài việc cho học sinh xác định câu ghép trong đoạn văn có sẵn, giáo viên cần nêu thêm ví dụ ngoài sách giáo khoa nhằm củng cố kiến thức cho học sinh về câu ghép, nhưng nên lấy những ví dụ cụ thể sát với cuộc sống hằng ngày của học sinh như : “Lớp chúng ta đạt giải nhất thi đua và được nhà trường nêu gương trước cờ”. Như vậy qua những ví dụ như vậy, ngoài việc giúp học sinh nắm chắc cấu trúc câu ghép còn giúp các em phân tích sáng tạp biến thể qua nội dung của ví dụ.
2.5/ Kết hợp lý thuyết và thực hành, tối ưu hoá hệ thống bài tập trong công tác phát triển và nâng cao năng lực ngôn ngữ
Ý thức hoá việc luyện tập ngôn ngữ là một điều cần thiết, đối với ngôn ngữ nói chung và tiếng mẹ đẻ nói riêng. Yù thức hoá bản ngữ của học sinh, tức là từ kinh nghiệm bản ngữ của bản ngữ cá em, hướng dẫn cho các em tự phân tích, rút ra các quy tắc về nói, viết sao cho đúng và ngày càng thích hợp với hoàn cảnh giao tiếp bản ngữ. Nói một cách khác là trước hay sau khi luyện tập, phải cung cấp lý thuyết về cách nói, cách viết cho các em.
Luyện tập ngôn ngữ theo phương thức hoạt động lời nói là một quan điểm giảng dạy mới hiện nay đối với ngôn ngữ

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_nang_luc_ngo.doc