Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp 1

doc 19 trang Xuân Hạnh 05/05/2025 180
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp 1
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BẢO LÂM
TRƯỜNG TIỂU HỌC THÁI SƠN
Kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi
Phụ đạo học sinh yếu kém
Người thực hiện: Hoàng Thị Dung
Giáo viên chủ nhiệm lớp: 1
Trường :TIỂU HỌC THÁI SƠN
NĂM HỌC: 2015-2016
Lời nói đầu
 Thưa các thầy cô và Ban lãnh đạo Trường Tiểu học Nà Thằn kính mến!
 Trong xã hội hiện nay, ngoài công cuộc xây dựng đưa đất nước Việt Nam lên thành nước “Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa” thì phong trào thi đua sôi nổi của ngành giáo dục “Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực” cũng không kém phần quan trọng và điều đó cũng giúp cho đất nước Việt Nam đi lên. Như Bác Hồ đã nói:
 “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không? Dân tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không? Đó là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
 Để làm theo câu nói của Bác, thầy và trò Trường Tiểu học Nà Thằn đã, đang và sẽ cùng nhau nổ lực, gắng sức thực hiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ Bác đặt ra cho người giáo viên là phải giảng dạy cho tốt cho các em để các em phát triển một cách toàn diện kiến thức, kỹ năng cần thiết và nhiệm vụ của Bác đặt ra cho học sinh là phải học thật giỏi để đưa đất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.
 Bậc Tiểu học là tiền đề cơ bản để đào tạo và dạy dỗ các thiếu nhi Việt Nam trở thành người có ích, người công dân tốt của xã hội.
 Nhận thức được tầm quan trọng của các vấn đề nêu trên nên trong quá trình giáo dục trẻ chúng ta cần hết sức xem trọng việc giảng dạy và càng xem trọng việc phụ đạo học sinh yếu, nhất là học sinh đọc yếu để nâng cao chất lượng một cách toàn diện. Song công tác phụ đạo học sinh đọc yếu vẫn chưa đạt đến chuẩn mực cao nhất do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
 Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc phụ đạo học sinh đọc yếu lớp 1.tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm đã tích lũy được qua quá trình phụ đạo học sinh đọc yếu. Hy vọng sẽ mang đến cho các giáo viên đồng nghiệp những kinh nghiệm cần thiết trong công tác phụ đạo học sinh đọc yếu. 
 Trong quá trình nghiên cứu đôi khi cũng mắc phải thiếu sót, rất mong sự đóng góp của các cấp lãnh đạo cùng các giáo viên đồng nghiệp.
Người thực hiện:Hoang Thị Dung Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài:
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC 
CHO HỌC SINH YẾU LỚP 1
PHẦN I: ĐẶT VẤN 
CƠ SỞ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
I – Lý do chọn đề tài
 Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ trương chính sách của đảng và nhà nước nói chung, của ngành giáo dục nói riêng về việc nói không với tiêu cực và bệnh thành tích từ năm học 2006 – 2007 đã thể hiện rất rõ. Theo thống kê trên toàn quốc nói chung và của các Trường Tiểu học nói riêng đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhằm chỗ. Học sinh bỏ học do quá yếu không theo học được. Điều đó khiến tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp Một bởi lớp Một là nền tảng cho sự phát triển của học sinh sau này, với lớp Một điều quan trọng nhất là đọc, viết được có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn khác. Mà từ xưa các nhà trường nói chung, Trường Tiểu học Nà Thằn nói riêng chỉ chú trọng tổ chức bồi dưỡng thêm cho học sinh giỏi mà chưa tổ chức phụ đạo riêng cho đối tượng học sinh yếu kém. Chính vì lẽ đó bản thân của mỗi giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp để phụ đạo học sinh yếu của lớp mình. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp Một”.
II –Mục đích nghiên cứu
 Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ cố gắng tiến đến mục tiêu “Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa” đất nước. Không những kinh tế công nghiệp cần cố gắng thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà kinh tế tri thức cũng phải phát triển. Vì vậy Giáo dục và Đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của nhân tố, tính cách, đạo đức và tri thức con người là trung tâm của sự phát triển đất nước. Thực tế qua nhiều năm đổi mới đời sống của người dân từng bước đi lên một cách đáng kể. Bên cạnh đó cũng còn một số người dân còn gặp nhiều khó khăn về việc trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản mà cụ thể là những kỹ năng như: nghe, nói, đọc, viết, tính toán cũng như những nhu cầu hoàn thành tốt chương trình Tiểu học là vô cùng quan trọng, đó là nền tảng cho các cấp sau và đó cũng là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đất nước.
 Việc bổ sung những kiến thức ở bậc Tiểu học là vấn đề hết sức cần thiết, nó không những là nền tảng giúp học sinh hoàn thành chương trình trung học đến chương trình phổ thổng và các cấp bậc khác mà thông qua đó nó còn cũng cố các thức ở bậc học nhằm nâng cao trình độ và bổ sung cho các em những kiến thức hỏng, giúp các em hiểu biết về thế giới bên ngoài, hòa nhập cùng thiên nhiên và hòa nhập vào công việc học tập cùng các bạn. Đó cũng giúp các em trở thành những học sinh giỏi và trở thành một chủ nhân tương lai đất nước. Và đó còn giúp các em trong việc hình thành nhân cách một cách toàn diện.
 Vấn đề ở đây là làm thế nào tổ chức cách dạy, phương pháp dạy học như thế nào hữu hiệu nhất nhằm giảm bớt áp lực cho cả giáo viên và học sinh, hình thành cho học sinh thói quen tự giác, tích cực học tập, tạo cho các em cảm giác hứng thú, yêu thích trong buổi học như câu nói:
“Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”
 Tôi mong muốn qua đề tài “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1” các giáo viên đồng nghiệp, đặc biệt là các giáo viên chủ nhiệm lớp 1 tham khảo và đóng góp ý kiến để kinh nghiệm của giáo viên trong trường hoàn thiện hơn, có thể thi đua với các trường bạn tốt hơn và mang lại vinh dự cho nhà trường.
III – Cơ sở nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu
 1. Phạm vi và thời gian của đề tài
 2. Đề tài này được áp dụng trong tất cả các giờ Tiếng việt ở lớp Một. Trong thời gian một năm tại Trường Tiểu học Nà Thằn, Thạch Lâm, Bảo Lâm, Cao Bằng
 3. Cơ sở nghiên cứu. Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc rèn đọc cho học sinh lớp Một
 4. Đề xuất một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp Một
 5. Đối tượng nghiên cứu
 Nghiên cứu về việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp Một
 6. Các phương pháp nghiên cứu
 + Phương pháp điều tra
 + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
 + Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục
 + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm 
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 - NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I - Giải quyết vấn đề:
 Thuận lợi – khó khăn: 
 - Trong quá trình thực hiện “Phụ đạo học sinh yếu trong phân môn Học vần” tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau: * Thuận lợi
 a. Về phía học sin + Đa số học sinh biết cố gắng vươn lên trong học tập để học giỏi như bạn mình.
+ Các em không có hiện tượng mặt cảm, tự ti trước lớp và giáo viên về sự yếu kém của mình. + Các em biết học hỏi, trao dồi kiến thức cùng các bạn trong lớp, trong tổ và bạn ngồi cạnh bên để học tốt hơn + Các em khá giỏi vui vẻ, đoàn kết giúp đỡ bạn mình học giỏi h b. Về phía giáo viên
 + Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát và luôn được ban lãnh đạo nhà trường tạo những điều kiện thuận lợi để những người giáo viên chúng tôi làm tốt nhiệm vụ được giao.
 + Được sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.
 + Ban lãnh đạo nhà trường đã tạo điều kiện cho những giáo viên chúng tôi giao lưu với các trướng bạn để nâng cao kinh nghiệm trong việc phụ đạo học sinh yếu.
 * Khó khăn
 a. Về phía học sinh
 - Đa số các em điều rơi vào một trong những trường hợp, lý do tương đối giống nhau là/:
 + Tiếp thu chậm; hổng hóc kiến thức ở những ngày nghỉ học.
 + Học sinh chưa hiểu hết tiếng phổ thông.
 + Trí tuệ kém phát triển.
 + Lười, chán học. + Do gia đình thuộc diện nghèo, khó khăn nên lo làm lụng kiếm tiền ít quan tâm, các em phải phụ giúp thêm với phụ huynh nên không có thời gian học bài ở nhà nên dần dần đâm ra chán nản, không muốn h + Do sức khỏe kém, bệnh tật. + Nhà xa trường, đi lại khó khăn.
+ Vì lớp học ở điểm phụ, thuộc vùng khó khăn nên vẫn còn nhiều phụ huynh không biết chữ nên việc kèm cặp, dạy thêm ở nhà là khó có thể.
 + Do các em không muốn đi học chỉ muốn ở nhà vui chơi.
âm chuẩn, chính x
 + Học sinh có kỹ năng đọc tốt chiếm tỉ lệ không cao, chỉ khoảng 30 %.
 b. Về phía giáo vi
 + Phụ trách lớp gồm nhiều đối tượng khác nhau, việc phân chia kiến thức trong một tiết học còn nhiều khó khăn và hạn chế.
 + Ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể ở trường và hoạt động xã hội, thời gian phụ đạo học sinh còn quá ít.
 + Phụ huynh còn chưa quan tâm các em, còn đổ lỗi và đẩy trách nhiệm cho giáo viên.
 c. Về phía nhà trường
 + Bàn ghế học sinh còn quá cao nên các em khó ngồi học, ánh sáng phòng học chưa đủ để các em đọc bài.
 - Để khắc phục tình trạng trên, tôi đã suy nghĩ và áp dụng một số giải pháp để rèn kỹ năng đọc cho học sinh thông qua giờ Học vần, kết quả mang đến trong thời gian thực hiện rất khả quan và phụ huynh cũng rất ủng hộ. 
II – Thực trạng, tình hình qua khảo sát điều tra 
 Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp Một/ 1 Trường Tiểu học với nội dung sau:
 + Tìm hiểu số học sinh học mẫu giáo và số học sinh không học mẫu giáo hoặc học không đều và tìm hiểu lý do học sinh không học mẫu giáo.
 + Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học ở trường mầm non
Kết quả thu được như sau:
+ Kết quả khảo sát số học sinh học mẫu giáo, không học mẫu giáo
hoặc học không đều
Lớp Một/ 
sĩ số
Học sinh
không học mẫu giáo
Học sinh
đi học không đều
Học sinh
đi học đều
17 học sinh
0 học sinh
8 học sinh
9 học sinh
+ Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái đã học ở trường mầm non
Lớp Một/ 
sĩ số
Học sinh
không biết chữ cái nào
Học sinh
biết từ 5 – 6 chữ
Học sinh
nhận biết hết
17 học sinh
4 học sinh
10 học sinh
3 học sinh
 Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chữ cái một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết quả học tập chưa cao.
 Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm nhiều ở gia đình; các em chưa có ý thức và chăm chỉ học. Vì vậy là giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng học sinh để học sinh phát huy hết những mặt tích cực và rèn luyện những mặt chưa tốt để học sinh hoàn thiện tốt mục đích học tập của mình. Chúng ta còn phải tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, thích thú trong học tập chứ không là cảm thấy như bị áp lực và trở nên chán nản không thích học. Không những thế giáo viên cũng phải gần gũi, thương yêu, an ủi và kịp thời động viên để các em thích học và tích cực hơn trong học tập.
III – Biện pháp thực hiện
 a/ Biện pháp tác động giáo dục
 - Từ những thực trạng đã khảo sát các em tôi tiến hành họp phụ huynh học sinh và đề nghị, yêu cầu phụ huynh trang bị đầy đủ sách, vở, dụng cụ học tập cần thiết để phục vụ cho các môn học.
 - Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở, uốn nắn kịp thời việc học, làm bài ờ nhà và rèn luyện cho các em sự tự giác học tập của người học sinh.
 - Tham mưu với nhà trường kịp thời để giáo viên có đủ đồ dùng dạy học như tranh ảnh, tài liệu tham khảo,  cần thiết để phục vụ cho việc giảng dạy được tốt và có chất lượng cao. Đồng thời đề nghị nhà trường cho học sinh nghèo mượn sách, vở, đồ dùng học tập,  để tiếp tục học tập, theo đuổi ước mơ của mình.
 - Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến”, “Đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau” để cùng tiến bộ. Đồng thời sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để các học sinh giỏi thực hiện giúp đỡ các học sinh yếu, kém
 b/ Phần học các nét chữ cơ bản
 Ngay sau những buổi học đầu tiên về rèn nề nếp cho các em, tôi giảng cho học sinh các nét chữ cơ bản. Tôi dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để giúp học sinh đễ hiểu và dễ nhớ những nét cơ bản đó tôi đã phân các nét chữ cơ bản đó theo tên gọi và cấu tạo gần giống nhau của các nét chữ đó thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản đã học mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dạng, cấu tạo giống nhau hoặc gần giống nhau.
 Các nét chữ cơ bản quen thuộc
STT
Nét chữ cơ bản
Tên nét chữ cơ bản
1

Nét thẳng đứng (nét sổ)
2

Nét thẳng ngang (nét ngang)
3

Nét xiên trái
4

Nét xiên phải
5

Nét cong hở phải
6

Nét cong hở trái
7

Nét cong kín
8

Nét cong kín phần cuối uốn lượng vào bụng chữ
9

Nét cong trên
10

Nét cong dưới
11

Nét móc ngược phải
12

Nét móc ngược trái
13

Nét móc xuôi phải 
14

Nét móc xuôi trái
15

Nét móc ngược trái xiên phải
16

Nét móc hai đầu
17

Nét móc hai đầu có vòng ở giữa (nét thắt)
18

Nét khuyết trên (nét khuyết xuôi)
19

Nét khuyết dưới (nét khuyết ngược)
20

Nét rút đầu (nét vòng)
21

Nét lượn ngang
22

Nét lượn dọc
 Sau khi cho các em học thuộc tên các nét cơ bản, tôi cùng các em phân chia các chữ cái theo nhóm các chữ cái đồng dạng để dễ dàng luyện đọc.
 - Các chữ viết thường
+ Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, o, e, ê, x. (gồm 7 chữ cái)
 + Nhóm 2: Những chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc (hoặc nét thẳng a, ă, â, d, đ, q. (gồm 6 chữ cái)
 + Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, u, p, n, m (gồm 7 chữ cái)
 + Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong) phối hợp với nét móc: l, h, k, b, y, g (gồm 6 chữ cái)
 + Nhóm 5: Nét các chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong: r, v, s (gồm 3 chữ cái).
 - Các chữ viết hoa
 + Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: A, Ă , A , M, N , U , Ư , I , K , L .(gồm 10 chữ cái)
 + Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: O, Ô, O , Q, C, E, Ê, P, R (gồm 8 chữ cái)
 + Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc phối hợp với nét cong: B, P, R (gồm 3 chữ cái)
 + Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét lượn dọc (lượn ngang) phối hợp với nét cong: D, D , L, S (gồm 4 chữ cái)
 + Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết: H , G , Y (gồm 3 chữ cái).
 c/ Phần học âm
 * Âm đơn
 Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tôi giảng dạy tiếp phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Học sinh có nắm vững chắc các chữ cái thì mới ghép được thành vần, rồi thành tiếng và cuối cùng là thành một câu, một đoạn văn hoàn chỉnh.
 Giai đoạn này tôi hướng dẫn các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều chữ viết khác nhau hay gặp trong sách, báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách, báo các em dễ hiểu và không bị lúng túng.
 Ví dụ
 Âm: a – a 
 + Âm a (âm a in thường) gồm hai nét: nét cong kín và nét sổ thẳng; âm a (âm a viết thường) cũng gồm nét cong kính nhưng âm a là nét sổ thẳng còn âm a là nét móc dưới.
 Vì vậy, việc học cấu tạo âm bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp các em dễ phân biệt được sự khác nhau về cấu tạo lẫn tên gọi của bốn âm quen thuộc sau: d; b; p; q.
 Ví dụ
 + Âm d gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên phải). Đọc là: “dờ”.
 + Âm b gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên phải). Đọc là: “bờ”.
 + Âm p gồm hai nét: nét sổ thẳng (nằm bên trái) và nét cong kín (nằm bên phải). Đọc là: “pờ”.
 + Âm q gồm hai nét: nét cong kín (nằm bên trái) và nét sổ thẳng (nằm bên phải). Đọc là: “quy”.
 * Âm ghép 
 Sang phần âm ghép (nghĩa là ghép hai âm đơn lại với nhau thành một âm ghép). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm ghép có âm h đứng sau thành một nhóm và cho các em nói lên điểm giống nhau và khác nhau giữa các âm đó.
 Ví dụ
 + Các âm ghép
 ch – c 	
 nh – n 
 th – t 
 kh – k 
 gh – g 
 ph – p 
 ngh – ng 
 + Còn lại các âm: gi, tr, qu, ng, tôi cho học sinh thật kỹ cấu tạo và cách ghép các chữ thành âm ghép.
 + Tôi cho học sinh phân từng cặp những âm có tên gọi giống nhau hoặc gần giống nhau:
 Ví dụ ch – tr 
 ng – ngh 
 c – k 
 g – gh 
 d/ Phần tìm các câu văn, đoạn văn bổ trợ
 Sau khi quan sát trong vài tháng học tôi thấy các em có sự nhàm chán trong các bài ôn tập nên tôi đã nghĩ ra được một số bài để kiểm tra sự nhận thức của các em thông qua các giờ chơi, giờ nghỉ, giờ ôn tập. Nhờ thông qua đó, các em được củng cố lại kiến thức về từ ngữ (điền âm, vần thích hợp, ), câu văn (có các âm, vần đã học) và để các em tránh được sự đơn điệu trong các bài ôn tập trong sách. Vì những bài ôn tập trong sách được lặp đi lặp lại cách ôn, bài nào cũng giống bài nấy, cách trình bày cũng như cách ôn làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán nên tôi đã thay vào tiết hai của bài ôn tập là phần chơi “Đố vui học tập” do tôi tự nghĩ ra những cách chơi mới lạ và hứng thú, vừa giúp các em tránh được sự nhàm chám trong các bài ôn tập mà còn giúp các em nhớ lại bài cũ đã học. Song tôi đã tìm những câu đố cũng như những phần trò chơi mang tính giáo dục cao và có ý nghĩa.
 Ví dụ
 Góc sân nhà Tí có cây ổi đào đang đâm chồi nảy lộc, xanh non mơn mởn. Cứ chiều mỗi ngày, Tí lại ra sân vun gốc, chăm sóc để cây ổi mau ra quả. Cô Phúc đi ngang qua, khen Tí chăm làm.
 Khi kiểm tra bài bằng mọi hình thức như bảng con, hộp phiếu cho học sinh bốc thăm rồi đọc lên câu, từ được viết trong thăm bốc được. Bảng và phiếu là những câu, từ đã học xong nhưng từ đó không có trong sách. Nếu như học sinh nhớ, thuộc được mặt chữ rồi thì dù từ ngữ có mới thì các em cũng đọc được. Khi viết bảng con tôi cũng không cho các em viết các từ ngữ có sẵn trong sách. Khi học môn Học Vần thông qua phần xây dựng, tìm từ mới các em sẽ biết thêm nhiều từ và hiểu được ý nghĩa của những từ đó. Do đó, khi đến phần xây dựng, tìm từ mới các em rất thích thú, hào hứng và tham gia sôi nổi nhiệt tình. 
 Qua đó, các em cũng có thể tìm các câu văn, đoạn văn hay mang tính chất:
 - Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng
 Ví dụ
 o a c d đ 
 	 / \	 ̉ ~ · 
 giỏ đỏ có cà
 cò đã có cá
 - Cung cấp vốn từ, câu phong phú
 Ví dụ
 u ư y n m l b 
 dì nụ là y tá ở tổ y tế.
 bà tư bế bé lệ đi từ từ
 bố tú đi mô tô đỏ
 mẹ na mổ cá mè.
 ng ngh nh th 
 má ngà là ca sĩ
 ba tứ đi xe mô tô về nhà cô thu
 bé nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà ngồi nghỉ
 - Có thể hợp thành đoạn hoặc bài văn có nộ

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.doc