Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt Lớp 1 để nâng cao chất lượng

ppt 38 trang Xuân Hạnh 24/04/2025 250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt Lớp 1 để nâng cao chất lượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt Lớp 1 để nâng cao chất lượng

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt Lớp 1 để nâng cao chất lượng
Trường Tiểu học TT Phố Mới 
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ HỘI THI GVG CẤP HUYỆN 
NĂM HỌC 2021 - 2022 
Giáo viên: Nguyễn Thị Luyên 
BIỆN PHÁP 
 SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT LỚP 1 ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
------ ------ 
NỘI DUNG BÁO CÁO 
Phần 1: Lí do chọn biện pháp 
Phần 2: Mô tả biện pháp 
1. Đối tượng áp dụng 
2. Thời gian áp dụng 
3. Các biện pháp, giải pháp thực hiện 
4. Kết quả đạt được 
5. Điều kiện để biện pháp được nhân rộng 
 6. Đề xuất, kiến nghị 
Phần 1: Lí do chọn biện pháp 
 Môn Tiếng Việt và các môn học khác đóng một vai trò rất quan trọng, góp phần đào tạo nên những con người phát triển toàn  diện cả về phẩm chất và năng lực. Bởi nếu chỉ dạy cho học sinh những kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, trong các tài liệu thì tiết học sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. 
  Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất. Học sinh chủ động, sáng tạo trong học tập, phát huy tính tích cực, để giúp các em học tập tốt. 
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học theo đúng hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của  học sinh. Để giúp các em học tốt, nếu chỉ dạy trên bảng đen phấn trắng thì học sinh sẽ chóng chán, tiếp thu bài hạn chế. Vậy người giáo viên không chỉ thiết kế nội dung bài học hợp lí, mà còn phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Học sinh ở lớp  ( nêu thực tại lớp mình: còn nhút nhát, chưa tự tin ) 
 Vậy làm thế nào để hình thành kiến mới. , Củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập.   nhằm khơi gợi trí tò mò, óc sáng tạo của học sinh. 
 Phần 1: Lí do chọn biện pháp 
. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng. Đặc biệt trong các tiết học Tiếng Việt ở phần hình thành dạy bài mới và củng cố kiến thức, rèn kĩ năng thực hành . 
 Trong các tiết Tiếng Việt, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo các phương pháp giảng dạy phù hợp thì người giáo viên cần giúp các em có phương pháp lĩnh hội kiến thức , để các em đọc thông ,viết thạo.Các em tự tin trong học tập. Từ đó khuyến khích tinh thần học tập của các em đồng thời góp phần rèn luyện phương pháp học tập, làm việc khoa học và sáng tạo. 
 Vì vậy, tôi đã đầu tư thời gian để nghiên cứu, kiểm nghiệm qua thực tế và rút ra “Biện pháp sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt lớp 1 để nâng cao chất lượng ". 
Phần 2: Mô tả biện pháp 
1. Đối tượng áp dụng 
2. Thời gian áp dụng 
3. Các biện pháp, giải pháp thực hiện 
3.1. Mục tiêu cần đạt khi sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt lớp 1 
 Biện pháp này áp dụng chủ yếu trong các tiết học môn Tiếng Việt phần hình thành kiến thức mới đối với HS lớp 1 học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Bên cạnh đó, GV cũng có thể áp dụng cho các tiết ôn tập, luyện tập. 
 Tôi đã áp dụng biện pháp này vào thực tế giảng dạy từ năm học 2020- 2021. 
Phần 2: Mô tả biện pháp 
3. Các biện pháp, giải pháp thực hiện 
3.1. Mục tiêu cần đạt khi sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt lớp 1 
- Hình thành kiến thức mới và củng cố, hệ thống lại các kiến thức đã học ở tiết học theo chương trình (theo bài, dạng bài, chủ đề,...) 
- Rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết , kể chuyện... trong các tiết học theo kế hoạch dạy học. 
- Góp phần phát triển tư duy, khả năng diễn đạt, khả năng phát hiện, tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức. Giúp học sinh thêm hứng thú và yêu thích học mônTiếng Việt. 
3.2. Các hoạt động tổ chức trò chơi trong tiết học : 
-Tổ chức trò chơi ở phần Kiểm tra bài cũ. 
-Tổ chức trò chơi ở phần Luyện tập - Mở rộng vốn từ. 
-Tổ chức trò chơi ở phần Tập đọc. 
-Tổ chức trò chơi ở phần Tập viết. 
-Tổ chức trò chơi ở phần Kể chuyện. 
-Tổ chức trò chơi trong phần củng cố - dặn dò. 
- Ngoài ra trong tiết ôn tập tôi cũng thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi. 
3.3. Xây dựng hệ thống trò chơi: 
3.3.1. Nguyên tắc xây dựng nội dung trò chơi: 
- Nội dung trò chơi phải phù hợp với mục tiêu tiết học và trình độ HS. 
- Nội dung trò chơi phải dựa trên cơ sở kiến thức đã học. 
- Các nội dung trò chơi đưa ra phải chính xác, chọn lọc. 
- Có hai cách: GV thiết kế trò chơi hoặc định hướng cho học sinh tham gia trò chơi theo yêu cầu của giáo viên. 
- Các trò chơi được vận dụng linh hoạt vào nội dung bài học cụ thể... 
- Trong mỗi trò chơi đều có sự phân hóa đối tượng rõ ràng. 
 3.4. Một số phương pháp và hình thức tổ chức dạy học: 
 3.4.1. Tổ chức trò chơi học tập 
 * Mục đích thiết kế trò chơi 
 Hình thành kiến thức của bài học, luyện tập lại kiến thức của bài mới, phát hiện ra kiến thức mới (nếu có) một cách nhẹ nhàng. 
 Làm cho giờ học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái. Học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập. Kích thích sự tìm tòi, sáng tạo . 
 Giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất như tình đoàn kết, thân ái, trung thực,  
* Nguyên tắc thiết kế trò chơi: 
 * Nguyên tắc vừa sức, dễ thực hiện: 
+ Mỗi trò chơi phải hình thành hoặc củng cố được một nội dung bài học cụ thể. 
+ Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài mới nhưng mang những cái tên gợi trí tò mò, gây hứng thú, góp phần hình thành và củng cố hệ thống kiến thức. 
+ Trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, phát huy trí tuệ, óc phân tích, sáng tạo. 
+ Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian ( từ 5 đến 10 phút) 
+ Trò chơi có sức hấp dẫn, tạo không khí thoải mái. 
+ Trò chơi phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Tổ chức không quá cầu kỳ. 
* Nguyên tắc thiết kế trò chơi: 
- Nguyên tắc khai thác và thực hành: 
+ Sử dụng triệt để yêu cầu, nội dung kiến thức cơ bản, cũng như đồ dùng, phương tiện có sẵn của môn học 
+ Các đồ dùng tự làm của giáo viên khai thác từ những vật liệu gần gũi xung quanh như: Vỏ hộp bánh kẹo, nắp chai,... sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm mỹ nhưng ít tốn kém. 
* Các bước chuẩn bị và tiến hành trò chơi như sau: 
GV chuẩn bị những dụng cụ cần thiết, có thể cho HS chuẩn bị những dụng cụ dễ kiếm. 
GV giải thích cách chơi ngắn gọn, rõ ràng 
Tiến hành: Dù trực tiếp hay gián tiếp, tất cả HS của cả lớp phải tham gia vào trò chơi; GV theo dõi và giúp đỡ HS . 
 - GV cùng HS thảo luận rút ra kiến thức thông qua trò chơi. 
 - Đánh giá kết luận: GV nhận xét, khuyến khích HS. 
3.4.2. Một số trò chơi học tập sử dụng trong môn học Tiếng Việt: 
**Tổ chức trò chơi ở phần Kiểm tra bài cũ: 
* Trò chơi: Hái táo 
- Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị giáo án điện tử có slide trò chơi Hái táo. Hình ảnh trên cây táo có các quả táo được gắn số thứ tự. Thẻ chữ để hiện các từ cần đọc, hình ảnh rổ để đựng táo khi học sinh đọc đúng và hái được táo. Tivi màn hình rộngcó kết nối HDMI với máy tính GV. 
- Cách chơi: HS sẽ chọn quả táo mà mình thích, tiếng , từ sẽ hiện ra. HS đọc tiếng , từ đó. Nếu đọc đúng quả táo sẽ được hái xếp vào rổ và được thưởng 1 tràng vỗ tay từ các bạn. Cứ như vậy cho đến khi trò chơi kết thúc. * Ví dụ: Khi dạy bài 28: t th. Tôi chuẩn bị 5 quả táo, mỗi quả táo ghi 1 tiếng, từ: ngó, nhà bà, bố mẹ, nghỉ hè, ở quê . 
** Tổ chức trò chơi ở phần Luyện tập - Mở rộng vốn từ: 
*Trò chơi : Ghép tranh với từ tương ứng 
 - Mục đích: Hiểu nghĩa của từ để ghép đúng tranh. Rèn luyện sự nhanh nhạy, tự tin. 
 - Chuẩn bị: Một số tranh (ảnh) theo bài học trong sách giáo khoa, một số thẻ từ (ghi sẵn). 
 - Cách chơi: Phát tranh và thẻ từ cho các nhóm. Nêu yêu cầu các nhóm thi đua ghép các tranh (ảnh) với các từ tương ứng. Nhóm nào ghép đúng và nhanh hơn thì thắng cuộc. 
* Ví dụ: Khi dạy bài 31: ua ưa giáo viên cho học sinh thi ghép nhanh tiếng với hình tương ứng ( dưa đỏ, quả dừa, rùa, cà chua, đũa, sữa.) 
 - Học sinh thực hành chơi.Giáo viên nhận xét,tuyên dương. 
 Ở bước Tìm tiếng ngoài bài học sinh đã quen thuộc nên rất dễ chán nản, không tập trung nên tôi đã lồng ghép trò chơi “ Thi tìm tiếng mới ”. Trò chơi này giúp học sinh nhìn, nhận diện và phát âm được các tiếng có chứa vần ua, ưa. 
 Cách chơi : Giáo viên chia lớp thành 3 tổ (mỗi tổ 2 dãy học sinh ngồi) thi tìm các tiếng có vần ua, ưa . Đội nào nêu được nhiều tiếng đúng, nhanh thì đội đó thắng cuộc. Giáo viên nhận xét, chốt kết quả đúng, tuyên dương đội tìm được nhiều tiếng, từ. 
 **Trò chơi học tập trong phần Tập đọc: 
*Trò chơi “Ai tinh mắt?” 
 - Mục đích: Giúp học sinh nhìn, nhận diện và phát hiện được các chữ cái, các tiếng có chứa các dấu thanh , âm , vần. 
 * Ví dụ: Khi dạy bài 34: v y trong phần tập đọc bài Dì Tư . Giáo viên cho học sinh tìm tiếng chứa âm v, y , có mấy tiếng chứa âm v, y. 
 - GV hướng dẫn học sinh chơi: 
 - Giáo viên nêu yêu cầu của cuộc chơi. 
 - Học sinh tham gia chơi, giáo viên nhận xét, tuyên dương. 
**Trò chơi học tập trong phần Tập viết: 
 - Để học sinh hứng thú và nhanh nhẹn trong phần luyện viết tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Ai nhanh hơn . 
 - Mục đích: Giúp học sinh có thói quen rèn viết đúng, viết nhanh. 
 Ví dụ : Khi dạy bài 36: am, ap . Cô hướng dẫn học sinh viết chữ am, quả cam, ap , xe đạp . Sau khi quan sát cô viết mẫu, học sinh thực hiện viết vào bảng con. 
 - Giáo viên nhận xét, tuyên dương. ( khen những bạn viết đúng, viết đẹp, viết nhanh) 
 *Trò chơi học tập trong phần kể chuyện: 
Để HS hiểu ND câu chuyện tôi tổ chức cho HS chơi trò chơi : “ Lật mảnh ghép ” 
 Mục đích: Giúp cho HS trả lời đúng câu hỏi dưới mỗi tranh. 
* Ví dụ : Khi dạy kể chuyện bài 32: Dê con nghe lời mẹ . Tôi cho HS lật từng mảnh ghép hình vuông hoặc hình chữ nhật. Dưới mỗi mảnh ghép là câu hỏi của mỗi tranh.HS nào nhanh tay chọn được mảnh ghép và trả lời đúng câu hỏi dưới tranh được nhận một phần thưởng, được cả lớp tuyên dương. 
 **Trò chơi học tập trong phần Củng cố - dặn dò: 
- Để giúp học sinh nắm chắc âm, vần mới học tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Ai nhanh, ai đúng. Đọc nhanh câu chứa âm, vần mới học trong bài tập đọc. 
Mục đích: Giúp học sinh nhìn, nhận diện và phát hiện được các chữ cái, các tiếng có chứa các dấu thanh , âm , vần vừa học. 
 Ví dụ: Khi dạy bài 40: âm, âp . Tôi hỏi học sinh hôm nay các con được học vần gì mới? Đọc câu có vần âm, âp trong bài tập đọc Bé Lê . Bạn nào đọc đúng, nhanh sẽ được tuyên dương 
 *Trò chơi trong các tiết ôn tập: 
 - Có thể nói tiết ôn luyện là thời gian vàng đối với học sinh lớp Một. Các em được củng cố lại kiến thức được học trong tuần. Để tránh sự nhàm chán khi phải học lại kiến thức cũ, tôi thường tổ chức các trò chơi với nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn: trò chơi “Hái hoa dân chủ”, “Ai nhanh – ai đúng”, “Rồng rắn lên mây”. 
 - Khi tổ chức trò chơi tôi luôn chuẩn bị một số câu hỏi đơn giản phù hợp với khả năng nhận thức của các em đọc chưa được, đọc yếu. Việc cho các em chậm tiến tham gia nhiều trò chơi sẽ giúp các em tiến bộ và tạo động lực để giúp các em cố gắng học tốt hơn. 
Ví dụ: Khi dạy bài 39 “Ôn tập” tôi yêu cầu học sinh nêu lại các vần đã học trong tuần . Để lôi cuốn học sinh vào hoạt động này tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Hái hoa dân chủ ”. 
- Mục đích : Giúp học sinh củng cố được các chữ cái, các tiếng có chứa các dấu thanh , âm , vần. 
 - Cách chơi : Từng đội cử đại diện lên hái hoa và đọc yêu cầu của hoa. Cả đội phải đọc đúng, nhanh chữ mà nội dung trong hoa yêu cầu. 
 - Đội nào đọc đúng, rõ ràng, nhanh theo yêu cầu thì thắng cuộc. 
 3.3.3. Tổ chức trò chơi theo nhóm: 
 Dạy học theo nhóm lấy “ hoạt động học ” làm trung tâm, GV không truyền thụ kiến thức một chiều mà hướng dẫn HS tự học và hỗ trợ kịp thời từng nhóm HS khi gặp khó khăn. 
 Tổ chức: Các em ngồi học theo nhóm, có nhóm trưởng điều hành. Mô hình này chú trọng hoạt động tự giáo dục của HS. 
 Đối với những nhóm có HS nhận thức chậm ,nhóm trưởng làm việc còn lúng túng, thì người GV phải là người “ làm mẫu ” và đóng vai trò là một nhóm trưởng . 
Ví dụ : Khi dạy 
 3.3.3. Tổ chức dạy học theo nhóm: 
 Với hình thức hoạt động nhóm, HS trao đổi bài với bạn ngay trong giờ học. Các em sẽ mạnh dạn , sáng tạo hơn. Tuy nhiên, nếu không chú ý đến HS tiếp thu chậm thì hiệu quả hoạt động này sẽ không cao. 
 Học sinh cần được bố trí chỗ ngồi tùy theo nhóm 4 hoặc 6 người. Không nên xếp nhóm 3, 5 người và không quá 6 người. 
 Các thành viên trong nhóm có điều kiện giúp đỡ nhau hoàn thành bài tập. Tinh thần thi đua trong nhóm được khơi dậy. HS hiểu bài nhanh hơn 
 Tuy nhiên ,GV cần khéo léo trong việc chia nhóm, tinh tế khi giao nhiệm vụ và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của mỗi nhóm. 
3.3.4. Giúp HS tự thực hiện trò chơi theo khả năng của HS : 
 Không nên bắt HS phải chờ đợi nhau trong quá trình thực hiện trò chơi . Trong cùng một khoảng thời gian của tiết học, phải chấp nhận có HS thực hiện trò chơi chậm hơn HS khác. GV hãy chú ý quan tâm giúp đỡ HS tiếp thu chậm nhưng không làm thay cho HS. 
4. Hiệu quả thực hiện của việc áp dụng biện pháp trong thực tế dạy học: 
Trước khi áp dụng biện pháp : 
 - Đa số các em học sinh rất nhút nhát, chưa hăng hái trong tiết học, đặc biệt là học sinh không thích học Tiếng Việt. Trong giờ học, không khí lớp học kém sôi động, học sinh không hăng hái giơ tay phát biểu, chưa mạnh dạn nêu ra ý kiến của mình. Lượng kiến thức lớp 1 tương đối nhiều đồng thời một số học sinh HS không hứng thú, học trầm, thậm chí sợ các tiết học. Bên cạnh đó còn HS có thái độ không tích cực chỉ hưởng ứng chứ không trực tiếp tham gia 
 Trước khi áp dụng biện pháp : 
- Việc đa dạng hoá trò chơi trong tiết học còn hạn chế. Giáo viên còn vận dụng máy móc, rập khuôn một số trò chơi nhất định từ tiết này qua tiết khác gây nên sự khập khiễng với mục tiêu từng hoạt động và sự nhàm chán, thiếu hứng thú ở học sinh. 
 - Đôi khi giáo viên không làm chủ tốt thời gian trong quá trình tổ chức trò chơi dẫn đến”cháy” giờ hay phân chia thời gian không hợp lý trong tiết dạy. Một thực trạng thường thấy là sự chuẩn bị, tổ chức một trò chơi của giáo viên chưa chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo yêu cầu của trò chơi nên hiệu quả của các trò chơi học tập còn hạn chế . 
*Sau khi áp dụng biện pháp : 
- Giáo viên không còn thấy lúng túng khi tổ chức một giờ học sao cho sinh động. Các trò chơi được vận dụng thành thạo, khá linh hoạt, khai thác triệt để tác dụng của mỗi trò chơi. Thông qua việc tổ chức các trò chơi cho các em, giáo viên đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu trong giảng dạy và chu đáo hơn , khi chuẩn bị đồ dùng dạy học. Việc thiết kế bài giảng đạt hiệu quả cao và sinh động hơn. Giờ dạy - học luôn sinh động, gây nhiều hứng thú cho học sinh. 
*Sau khi áp dụng biện pháp : 
- Chính sự hứng thú của các em trong mỗi giờ học được nâng lên, nên giờ học của các em không còn khô khan, mệt mỏi như trước đây nữa mà trở nên sôi động, hấp dẫn. Các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, hào hứng, phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của HS lớp 1 “ Học mà chơi, chơi mà học”. Tính nhút nhát, tự ti của một số em được khắc phục, các em mạnh dạn, tự tin và ham học hơn. 
*Sau khi áp dụng biện pháp : 
- Khi sử dụng trò chơi trong dạy học nói chung và đối với học sinh lớp 1 nói riêng, điều cần thiết phần chuẩn bị và tổ chức cần chú ý kiến thức, trình độ học sinh và điều kiện để lựa chọn đưa vào dạy học như một hoạt động dạy học, tránh rườm rà, mất thời gian. Giáo viên phải đặc biệt chú ý xác định được rõ yêu cầu cần đạt của trò chơi, các bước chuẩn bị và tiến hành trò chơi đó 
4. Kết quả đạt được: 
 Trước khi thực hiện biện pháp này, tôi đã thực nghiệm ở lớp 1B và 1C . 
 Khi chưa thực nghiệm biện pháp này, chất lượng của 2 lớp là tương đương nhau. 
- Lớp 1B: Dạy thực nghiệm “ Biện pháp sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt lớp 1 để nâng cao chất lượng ”. 
- Lớp 1C: Không dạy thực nghiệm “ Biện pháp sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng Việt lớp 1 để nâng cao chất lượng ”. 
 Sau khi vận dụng biện pháp này vào thực tế giảng dạy, tôi đã tiến hành khảo sát và đạt được một số kết quả sau: 
Lớp 
Sĩ số 
Điểm 9 - 10 
Điểm 7 - 8 
Điểm 5 - 6 
Điểm dưới 5 
SL 
% 
SL 
% 
SL 
% 
SL 
% 
1B 
30 
11 
37 
11 
37 
8 
26 
0 
0 
1C 
28 
4 
13 
9 
28 
14 
44 
1 
5 
Kết quả cụ thể như sau: 
5. Điều kiện để biện pháp được nhân rộng: 
 Để áp dụng các vấn đề tôi trình bày trong báo cáo này, giáo viên cần: 
- Nắm rõ nội dung chương trình để thiết kế nội dung tiết học, đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục. 
- Tìm hiểu thực trạng dạy học và cách thiết kế theo dạy học tích cực. 
- Tìm hiểu xem học sinh cần rèn kĩ năng nào, cần khắc sâu kiến thức nào mà ở tiết chính các em chưa nắm vững. 
 Tôi rất mong trong thời gian tới, tổ chuyên môn sẽ có chuyên đề sâu rộng hơn để áp dụng biện pháp này đối với các lớp khối 1 và các khối khác trong trường. 
6. Đề xuất kiến nghị: 
6 .1 .Đối với giáo viên: 
 Mỗi giáo viên phải trau dồi kiến thức, say mê nhiệt tình với môn Tiếng Việt. 
 GV phải đi sâu tìm hiểu HS, nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh đối với môn Tiếng Việt. 
 Giáo viên chú ý nhất trong khi dạy học là cần phát huy  tính tích cực của học sinh. 
 Người giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài, thay đổi hình thức gây hứng thú cho học sinh trong học toán. Bởi sự hứng thú và tích cực trong học tập giúp các em học tốt hơn. 
6.2.Đối với nhà trường: 
 Nâng cao vai trò của tổ chuyên môn bằng cách tổ chức và triển khai các phương pháp dạy học mới một cách triệt để. 
 Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao hiệu quả giờ dạy của giáo viên. Nhà trường cần đầu tư, mua sắm thiết bị, đồ dùng phục vụ các tiết dạy cho hiệu quả. 
6. Đề xuất kiến nghị : 
 6.3.Đối với các cấp quản lí: 
 Nên tổ chức nhiều chuyên đề: Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt trong mỗi năm học. 
 Cần cung ứng đầy đủ đồ dùng, phương tiện dạy học cho trường học. 
 Nhìn vào bảng thông kê ta nhận thấy: Lớp thực nghiệm HS vận dụng tốt hơn, số lượng HS đạt điểm 7 trở lên cao hơn nhiều so với lớp đối chứng. Đặc bi

File đính kèm:

  • pptsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tro_choi_trong_day_hoc_tieng_v.ppt