SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 theo bộ sách Kết Nối Tri Thức Và Cuộc Sống
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 theo bộ sách Kết Nối Tri Thức Và Cuộc Sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 theo bộ sách Kết Nối Tri Thức Và Cuộc Sống

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2 THEO BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VÀ CUỘC SỐNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 Lý do chọn đề tài 2 Mục đích nghiên cứu 3 Đối tượng nghiên cứu 3 Phương pháp nghiên cứu: 3 NỘI DUNG 3 Cơ sở lý luận 3 Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – 5 Thực trạng chung của nhà trường. 5 Thực trạng của lớp. 6 Một số kinh nghiệm đã thực hiện 7 Tìm hiểu thực tế 7 Hình thành đôi bạn học tập 9 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán 10 Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán 12 Hướng dẫn giải toán và trình bày bài giải 14 Hướng dẫn chấm chữa 17 Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập 18 Hiệu quả đạt được 19 KẾT LUẬN 20 MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của việc đổi mới. Như chúng ta ai cũng biết môn Toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục cũng đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Giải toán có lời văn là những bài toán thực tế nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc liên quan đến cuộc sống hằng ngày với các em. Từ đó giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ Tình huống toán học” trong cuộc sống hàng ngày. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Môn toán là ''chìa khóa'' mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội. Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 22 của Bộ GD&ĐT có rất nhiều điểm mới, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lý do để giáo viên cần quan tâm tỉ mỉ và thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp khi học sinh học các môn học trong đó có môn Toán. Năm học tôi được phân công dạy lớp 2A. Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn trong chương trình toán ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2A nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt suy luận, phân tích. Việc dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học sẽ góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng suy luận, và kĩ năng giải toán đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên.Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài: " Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 theo bộ sách Kết Nối Tri Thức Và Cuộc Sống ". Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu một số vấn đề lí luận đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học. Tìm hiểu thực trạng việc Dạy- học toán có lời văn lớp 2 và đưa ra các Biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, Trường Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Học sinh lớp 2 – Trường Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu Phương pháp dự giờ và quan sát thông qua dự giờ. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu NỘI DUNG Cơ sở lý luận Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giảiCòn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau. Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức , các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó , từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận logic . Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đềMột số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?...Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giảiNhững nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi: Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ huynh học sinh. Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và học sinh. Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ. Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, thật thà, trung thực và có ý thức vươn lên trong học tập. * Khó khăn: - Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học tập của các em. Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu. Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao. Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế. Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều. Thực trạng của lớp. Năm học tôi được phân công giảng dạy lớp 2A Trường Lớp 2A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 25 học sinh. Trong đó: Con cán bộ công chức: 1 em. Con gia đình nông nghiệp: 24 em. Nam: 12 em; nữ: 13 em. Các em ở rải rác khắp 6 thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy: + Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp + Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều – phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán. Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán có lời văn của 25 học sinh lớp 2A và thu được kết quả như sau: Sĩ số Giải thành thạo Kỹ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải 25 em 5 em = 20 % 7 em = 28 % 13 em = 52% Kết quả thu được tôi thấy rằng số học sinh giải thành thạo toán có lời văn rất ít, chỉ có 5 em chiếm 20% , trong khi đó giải chậm cũng chỉ có 7 em tỉ lệ 28% , trong khi đó số học sinh chưa nắm được cách giải khá nhiều, có tới 13 em chiếm tỉ lệ 52%, điều này cho thấy học sinh giải toán có lời văn rất hạn chế Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau: Đối với các đề toán như thế này giáo viên thực hiện theo các bước sau: + Giáo viên đọc yêu cầu bài toán, khi giáo viên đọc lưu ý nhắc học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên cần thể hiện ngữ điệu gây sự chú ý cho học sinh những yêu cầu bài toán cần giải quyết. + Gọi học sinh đọc lại yêu cầu từ 2 đến 3 em, giảm giản về sau. + Hướng dẫn phân tích giáo viên phải đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt để học sinh nhận biết các điều kiện đã có và điều kiện cần phải giải quyết với hệ thống các câu hỏi như sau: ? Bài toán đã cho biết gì? ? Bài toán hỏi gì ? Bài toán yêu cầu tìm gì? Hoặc: Trong bài toán đã cho em biết gì và cần tìm gì?... Ví dụ: Bài toán: "Mai 7 tuổi, bố 38 tuổi. Hỏi bố hơn Mai bao nhiêu tuổi?" (Bài 3 trang 17 sách Toán 2 tập một Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống) Hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài toán như sau: Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết Mai 7 tuổi, bố Mai 38 tuổi). Bài toán yêu cầu làm gì? ( Bài toán yêu cầu tìm bố lớn hơn Mai bao nhiêu tuổi) Đối với hệ thống câu hỏi giáo viên có thể nâng dần lên về sau khi học sinh đã có kĩ năng phân tích đề bài. Tuy nhiên ở bước này giáo viên có thể hướng dẫn các em các bài. Các tiết học trên lớp tránh giảng qua loa rồi chỉ cho học sinh biết bài này phải làm phép cộng, trừ, nhân hoặc chia. Việc hướng dẫn học sinh nhận diện dạng toán là nền tảng cho các em học toán và giải toán lên các lớp trên. Từ việc nhận dạng bài toán các em sẽ tư duy tìm ra phép tính đúng cho bài toán. Chẳng hạn như dạng bài toán: " Giải bài toán về nhiều hơn" Thì phép tính đúng của bài toán là phép cộng hoặc dạng :" giải bài toán về ít hơn" thì phép tính đúng cho bài toán đó là phép trừ. Ở lớp hai hầu hết các bài giải chỉ giải bằng một phép tính, không có giải bằng hai phép tính. bước này giáo viên cần hướng dẫn các em với các dạng câu hỏi để nhận diện bài toán. Ví dụ : Bài toán "Việt đã tô màu 6 bông hoa, còn 4 bông hoa chưa tô màu. Hỏi số bông hoa chưa tô màu kém số bông hoa đã tô màu mấy bông?" (Bài 2 trang 17 sách Toán 2 tập một Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống) Đối với bài toán này sau khi phân tích, tóm tắt học sinh nhận biết được đây là dạng " Giải bài toán về ít hơn". Ở bước này giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh nhận biết như: Số bông hoa chưa tô màu như thế nào so với số bông hoa đã tô màu? ( Số bông hoa chưa tô màu ít hơn số bông hoa đã tô màu) Đây là bài toán có dạng gì? (Giải bài toán về ít hơn) Thời gian đầu là khó với các em, giáo viên có thể chỉ ra trực tiếp dạng toán và nâng dần về sau. Sau khi học sinh nhận dạng bài toán giáo viên cần hướng dẫn các em tìm cách giải quyết (nêu cách làm) với các câu hỏi như sau: Để tìm số bông hoa chưa tô màu em làm gì? ( Ta lấy số bông hoa đã tô màu trừ đi số số bông hoa chưa tô màu) Bước này giáo viên không nên hỏi muốn tìm số bông hoa chưa tô màu em làm phép tính gì? Nếu đặt câu hỏi như thế sẽ không phát huy được tư duy của các em. Trước khi học sinh viết phép tính giáo viên cần Hướng dẫn các em tìm câu lời giải đúng với yêu cầu bài toán. Lưu ý với học sinh bài toán yêu cầu gì mình trả lời thế. Cụ thể bài toán hỏi gì các em chỉ việc gạch bỏ chữ hỏi và viết câu trả lời sau từ hỏi. Ví dụ: Bài toán trên ta viết câu lời giải như sau: Số bông hoa chưa tô màu là: Bông hoa chưa tô màu có: Ở bước này giáo viên không nên máy móc rập khuôn bắt học sinh viết một mẫu lời giải, mà phải để học sinh phát huy tính sáng tạo. Khi học sinh nêu câu lời giải giáo viên cần gọi nhiều học sinh nêu câu lời giải khác và hướng dẫn uốn nắn các em tìm ra câu lời giải chính xác, ngắn gọn. Trong giải Toán có lời văn bước này là bước giúp học sinh phát huy sáng tạo, qua đây giáo viên phát hiện và tìm ra học sinh có năng khiếu về môn Toán. Đồng thời cũng rèn cho các em có kĩ năng giải toán tốt. b. Hướng dẫn trình bày bài giải Hướng dẫn cách trình bày bài giải đây cũng là bước quan trong vì giáo dục học sinh có tính cẩn thận. Đối với bước này giáo viên cần có quy định cụ thể ngày từ đầu năm và tất cả các bài toán giải, để học sinh có thói quen và trở thành kỹ năng khi trình bày bài giải toán, cụ thể như sau: Trước hết viết bài giải giữa vở, viết lời giải phải xuống hàng khi viết từ lề vở trái lùi vào 3 ô, sau đó xuống hàng viết phép tính, phép tính lùi vào 4 ô , đáp số xuống dòng viết lùi vào 5 ô. Ví dụ: Bài giải Số bông hoa chưa tô màu là: 6 - 4 = 2 ( bông hoa) Đáp số: 2 bông hoa Trong các bài toán không yêu cầu cách trình bày bài giải cụ thể. Nhưng bản thân tôi đã dạy nhiều năm ở Tiểu học tôi thấy việc trình bày bài bài giải như thế nào cho đẹp cũng rất cần thiết vì vậy thông qua kinh nghiệm bản thân và cách làm của đồng nghiệp tôi tự rút ra cách trình bày bài giải như thế là tối ưu nhất. 2.3.6. Hướng dẫn chấm chữa Trong các môn học việc chấm chữa là không thể thiếu, việc chấm chữa theo thông tư 22 của Bộ GD&ĐT năm 2016 có nhiều điểm mới đó là không chấm điểm bài làm học sinh bằng điểm số mà chỉ nhận xét đánh giá. Thông qua nhận xét đánh giá giáo viên sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ cho từng học sinh cụ thể với từng môn học cụ thể. Đây là điều kiện thuận lợi hơn giáo viên giúp đỡ trực tiếp các em trong học tập tốt hơn. Việc chấm chữa không chỉ giáo viên thực hiện mà học sinh cũng tham gia chấm. Học sinh đánh giá nhận xét bài mình làm và bạn làm với nhiều hình thức khác nhau như: Nhận xét bài làm của bạn, đưa ra cách làm của mình, đồng ý với cách làm cửa bạn... dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên. Trong bước này học sinh hoàn toàn chủ động trong việc chấm chữa bài của mình và bạn mình một cách tích cực. Ví dụ: học sinh tự chấm bài mình rồi đối chiếu với bài bạn rồi tự chữa bài sai. Cũng có thể các em đổi chéo vở để chấm dưới sự quan sát hướng dẫn của giáo viên. Trong các bước giải toán thì bước chấm chữa không thể thiếu, việc chấm chữa diễn ra song song việc các em làm bài, tránh để học sinh làm xong các bài mới chấm một lần. Nếu làm như vậy học sinh khó phát hiện ra việc mình giải sai ở chỗ nào, nhiều bài quá học sinh sẽ nhầm bài này với bài khác. Từ đó các em sẽ khó nhận biết bài này vì sao sai, bài khác sai ở chỗ nào. .. các trường hợp sai thường rơi vào những học sinh gặp khó khăn trong giải toán, giải còn chậm, lúng túng. Vì vậy chúng ta nên giải quyết dứt điểm và áp dụng thông như thông tư 22 của BGD&ĐT hướng dẫn. Từ
File đính kèm:
skkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_giai_toan_co_loi_van_c.docx