Tóm tắt Sáng kiến Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4/4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3 đọc và viết tốt hơn
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Sáng kiến Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4/4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3 đọc và viết tốt hơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Sáng kiến Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 4/4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3 đọc và viết tốt hơn

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC 2016 - 2017 Mã số 17 I. Sơ lược bản thân Họ và tên: Huỳnh Thị Thùy Linh. Năm sinh: 1987 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: CĐSP ngành Giáo dục Tiểu học Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên dạy lớp Đơn vị: Trường Tiểu học Bình Thạnh 3. II. Nội dung 1. Thực trạng, nguyên nhân 1.1. Thực trạng Qua gần bốn năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được khả năng của các em. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh còn hạn chế, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Nhưng một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa bài giảng của cô, nhất là đối với học sinh còn hạn chế. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Việc phụ đạo học sinh còn hạn chế hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Bằng phương pháp điều tra thông qua bảng tổng hợp ghi nhận tình hình học tập và khảo sát kết quả học của 14 học sinh lớp 4/4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3 trước khi áp dụng: Khả năng học Tổng số HS Đọc còn hạn chế Viết còn hạn chế Làm tính còn hạn chế SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Trước khi áp dụng 19 1.2. Nguyên nhân *Về phía học sinh: Ngắt nghỉ hơi chưa đúng cụm từ, các dấu câu; không phân biệt được các dấu câu hoặc đọc lẫn lộn các âm-vần, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó thái độ khi đọc bài, sự biến nhát đọc, đặc biệt với những từ khó, từ mới không đọc dần dần không biết đọc phải đánh vần lại – đó là nguyên nhân chủ quan sâu xa nhất thường gặp ở các em. Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng, là một chuỗi mắc xích đi liền kề nhau. Một khi học sinh đọc hay phát âm không đúng thì học sinh sẽ viết sai. Vì vậy, các em đọc còn hạn chế thường cũng viết còn hạn chế, viết chậm. Ngoài ra về mặt số lượng từ ngữ ở học sinh lớp 4 khá nhiều và khó. Nếu các em không hiểu và nắm nghĩa của từ; không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cấu trúc-cách ghép âm vần thì không thể viết đúng chính tả. *Về phía giáo viên: Bên cạnh tư chất và điều kiện học hành của các em, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh còn hạn chế. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. 2. Tên sáng kiến và lĩnh vực áp dụng 2.1. Tên sáng kiến Tên đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4/ 4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3 đọc và viết tốt hơn. 2.2. Lĩnh vực áp dụng Lĩnh vực áp dụng: Học sinh lớp 4/ 4 Trường Tiểu học Bình Thạnh 3. 3. Nội dung của sáng kiến 3.1. Những biện pháp chung a. Xây dựng môi trường học tập thân thiện: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên phải luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ: Giáo viên nên thay thế những lời chê bai bằng khen ngợi, giáo viên nên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Tổ chức tiết hoạt động tập thể để phát huy tính chủ động, tự quản và thi đua học tập của lớp, tổng kết tình hình học tập, biểu dương, khen ngợi kịp thời các học sinh còn hạn chế kém có nhiều cố gắng khi hoàn thành được phần đọc hay viết của mìnhcùng đồng thời qua tiết sinh hoạt tập thể lớp. b. Tìm hiểu phân loại các đối tượng học sinh : Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh còn hạn chế đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, nói còn lập lững hay phát âm không rõ, viết còn hạn chế, lẫn lộn kiến thức , hay quên, Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra vừa phù hợp với chuẩn kiến thức kĩ năng vừa phù hợp với khả năng của các em nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh còn hạn chế được củng cố và luyện tập phù hợp với khả năng sau đó tăng dần độ khó theo chuẩn để kích thích tinh thần học tập ở các em. Ví dụ: Dạy bài tập đọc“ Đoàn thuyền đánh cá”( sách giáo khoa Tiếng Việt 4– tập 2– trang 59) với mục tiêu chung là: Bước đầu biết đọc diễn cảm một, hai khổ thơ trong bài với giọng vui, tự hào;trả lời được các câu hỏi trong sách giáo khoa; thuộc 1,2 khổ thơ yêu thích”. Với học sinh còn hạn chế có thể chỉ với yêu cầu: “Đọc trơn được các từ ngữ trong bài, bước đầu đọc diễn cảm một, hai khổ thơ trong bài với giọng vui, tự hào;trả lời được các câu hỏi 1, 2, 3 trong sách giáo khoa; thuộc 1 khổ thơ yêu thích”. Với mục tiêu chỉ cần đọc được các từ ngữ mà nội dung văn bản có, mức độ đọc diễn cảm với sự khuyến khích khi các em đọc trơn được các tiếng. đồng thời dành các câu hỏi 1, 2 để các em có điều kiện trả lời trước lớp. Còn khả năng học thuộc lòng, tùy khả năng có thể học tại lớp 1 khổ thơ hay về nhà học. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Ví dụ như yêu cầu luyện tập của một tiết chính tả là ba bài tập, các em này có thể hoàn thành một hoặc hai bài tuỳ theo khả năng. Theo đó giáo viên cần kết hợp đồng thời sự hổ trợ của học sinh giỏi để vừa tạo tính thân thiện gần gũi vừa học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh còn hạn chế khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần hoặc vào các tiết tự học, tiết bổ sung. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề. c. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập cho các em, tạo sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, cần phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. d. Kèm cặp học sinh còn hạn chế: Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát để biết số lượng học sinh còn hạn chế là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Lập danh sách học sinh còn hạn chế và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi khi các em trả lời đúng, Đồng thời cần chủ động gặp gỡ hoặc liên lạc qua điện thoại với phụ huynh để trao đổi về việc học tập. từ đó mới có sự thống nhất chung với các biện pháp khắc phục. 3.2. Những biện pháp cụ thể: 3. 2.1. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong phân môn Tập đọc Dù đã bước sang giai đoạn thứ 2 của quá trình học tiểu học – giai đoạn đòi hỏi về mặt kĩ năng khó và phức tạp hơn nhưng vẫn còn một số em đọc còn hạn chế cả về đọc đúng, đọc hiểu, đọc trôi trãi, đọc để cảm thụ tác phẩm, văn bản lẫn tốc độ cho một tiếng, một câu hay một văn bản chưa đạt yêu cầu. Biện pháp khắc phục: Đối với những học sinh đọc còn hạn chế thì giáo viên cần: - Tạo không khí cởi mở, khuyến khích đọc nhằm cho học sinh điều kiện được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho luyện đọc lại từ sai nhiều lần trong các giờ tập đọc kể cả khi các em đọc bài ở những môn học khác. Có thể phối hợp các hình thức đọc cá nhân hay nhóm đôi với học sinh khá giỏi hoặc theo nhóm lớn bổ trợ lẫn nhau. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút hoặc cả buổi sinh hoạt đầu giờ. - Kết hợp với phụ huynh học sinh, có thể là cha mẹ hoặc anh chị học lớp lớn hơn giao nhiệm vụ về nhà riêng cho các em. Như căn dặn về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra hoặc phối hợp cho ban cán sự lớp để kiểm tra và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào để có những biện phái giúp đỡ hợp lí. - Động viên các em mượn sách, truyện ở thư viện để đọc. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình trong giờ học hay đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy sự say mê rèn đọc. - Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. 3.2.2. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong phân môn Chính tả Trong giai đoạn này học sinh đã được giảm bớt thời lượng viết chính tả 1 tiết/ tuần so với 2 tiết/ tuần như giai đoạn đầu lớp 1, 2, 3. Đo đó giai đoạn này cả giáo viên lẫn học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn và viết chính tả. Biện pháp khắc phục: Đối với những học sinh viết còn hạn chế thì giáo viên cần: - Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, cho viết một đoạn văn có sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và cần thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. - Khi các em đã nắm cơ bản về cấu tạo âm-vần thì trong giờ viết chính tả: giáo viên cần lưu ý thường xuyên cho các em đọc bài viết, tìm từ khó viết với việc phân tích rõ cấu tạo âm vần, phát âm tiếng từ; cùng đồng thời đưa ra những lời giải thích cho những từ ngữ dễ viết nhầm. Bên cạnh đó viết từ khó vào bảng con là một biện pháp hiệu quả nhất trong các giờ viết chính tả, giáo viên có thể cho viết lại lần 2 hoặc 3 lần từ khó viết bằng cách viết bằng ngón tay vào không khí. Khi đọc giáo viên cũng cần đến gần vừa đọc bài viết vừa quan sát nhắc nhở kịp thời từng em viết đúng. - Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả. Tóm lại: tất cả những công việc này giáo viên cần có sự hổ trợ của tổ nhóm, ban cán sự lớp cùng gia đình trong việc tạo thói quen thường xuyên viết trong sự kiểm tra. Mặt khác là sự hỗ trợ không nhỏ của học sinh khá giỏi trong tất cả các giờ học để tạo thói quen dần cho việc nói đúng và viết đúng chính tả cho các em. 4. Hiệu quả - Xuất phát từ thực tiễn của lớp, tôi đã thực hiện các biện pháp trên, qua một thời gian tôi thấy lớp tôi có chuyển biến rõ rệt, các em học sinh đọc và viết chính tả tốt hơn. Trong giờ học các em tiếp thu bài tốt hơn, không khí học tập sôi nổi hơn. Các em rất hứng thú say mê trong học tập. Qua đó các em dần có thói quen đọc và viết ngày một chuẩn hơn. - Để có đánh giá sự tiến bộ của các em học sinh lớp 4/ 4 trường Tiểu học Bình Thạnh 3 dựa vào bài kiểm tra môn Tiếng Việt tại thời điểm cuối học kì 1 năm học 2016- 2017. Kết quả như sau: Khả năng học Tổng số HS Đọc còn hạn chế Viết còn hạn chế Làm tính còn hạn chế SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Đầu năm 19 Cuối HKI 19 Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên các em học sinh còn hạn chế của lớp 4/ 4 đến thời điểm này có sự tiến bộ hơn. Kết quả cho thấy dạy theo phương pháp đổi mới đã có hiệu quả nhất định đối với việc rèn kĩ năng đọc và viết đúng chính tả cho học sinh. Bởi số lượng học sinh viết không mắc lỗi đã tăng lên và số học sinh mắc lỗi nhiều đã giảm đi ở cuối HKI so với thời điểm đầu năm. Một số học sinh viết còn hạn chế vào đầu năm học thường sai từ 10 lỗi trở lên trong 1 bài, đến nay số lỗi đã giảm xuống còn 1- 5 lỗi/ mỗi bài. Nhưng với tôi đó là kết quả đáng mừng để tôi tiếp tục nỗ lực trong thời gian tới. 5. Khả năng vận dụng Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh còn hạn chế các khối 4, 5 đạt hiệu quả. Bình Thạnh, ngày. tháng. năm 2017 Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị Người viết Huỳnh Thị Thùy Linh
File đính kèm:
tom_tat_sang_kien_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_44_truo.doc